Thống kê truy cập

Số lượng và lượt người truy cập

  • Online 4

  • Hôm nay 2649

  • Tổng 6.779.966

Góp ý dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi)

Post date: 28/11/2024

Font size : A- A A+

Luật Việc làm (sửa đổi) được hoàn thiện theo hướng bổ sung, làm rõ hơn để góp phần quản trị, xây dựng khung pháp lý tạo việc làm đẩy đủ, chất lượng, tăng năng suất lao động cao. Trong quá trình thúc đẩy tạo việc làm đầy đủ, chất lượng, dự thảo sẽ tập trung vào vấn đề nguyên tắc, gốc là thúc đẩy kinh tế xã hội để giải quyết, gia tăng việc làm, giải quyết xung đột trong việc làm, cải thiện hệ thống hỗ trợ việc làm, dịch vụ công về việc làm, tăng cường bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động và cương quyết xóa bỏ thể chế bất bình đẳng trong việc làm. Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Bình đã tham gia góp ý dự thảo Luật.

 

 

Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Bình tại phiên thảo luận về Luật Việc làm (sửa đổi)

 

Qua nghiên cứu dự thảo Luật Việc làm; Tờ trình của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Văn hóa xã hội của Quốc hội, Báo cáo thẩm định của Bộ Tư pháp, Đoàn có một số ý kiến tham gia như sau:

1. Về sự cần thiết ban hành

Cơ bản đồng tình với việc ban hành Luật như Tờ trình của Chính phủ trình Quốc hội; việc ban hành Luật việc làm nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về vấn đề việc làm; khắc phục các tồn tại, hạn chế  trong Luật Việc làm năm 2013; đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, phù hợp của hệ thống pháp luật có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước; đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội; góp phần thúc đẩy phát triển thị trường lao động, hướng tới bảo đảm việc làm bền vững cho tất cả lao động.

2. Một số ý kiến góp ý

Một là: Về quy định thủ tục hành chính trong dự thảo Luật: Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội tại văn bản số 15/CTQH ngày 29/10/2024 về đổi mới tư duy trong xây dựng PL theo đó trên tinh thần cơ bản không quy định thủ tục hành chính, hồ sơ, trình tự thủ tục trong luật mà giao cho Chính phủ, các Bộ quy định. Qua nghiên cứu dự thảo Luật cho thấy, tại dự thảo Luật còn có một số nội dung quy định về thủ tục hành chính (TTHC) như: Trình tự đăng ký lao động (Điều 23); điều chỉnh thông tin về việc làm trong cơ sở dữ liệu về người lao động  (Điều 25); trình tự, thủ tục hỗ trợ người sử dụng lao động đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động (Điều 63); Trình tự, thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp (Điều 66); trình tự, thủ  tục hỗ trợ người lao động tham gia đào tạo nâng cao tay nghề (Điều 74, Điều 77)….. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu rà soát loại bỏ các quy định về TTHC ra khỏi dự thảo Luật và giao cho Chính phủ quy định nội dung này.

Hai là: Về Chính sách của Nhà nước về việc làm(Điều 5), đồng tình với 9 chính sách quy định tại dự thảo Luật. Tuy nhiên, đề nghị BST nghiên cứu, xem xét bổ sung chính sách việc làm đối với lao động nữ đang mang thai và nuôi con dưới 12 tháng tuổi nhằm tạo việc làm cho lao động nữ, góp phần thực hiện tốt mục tiêu bình đẳng giới và quyền lợi của lao động nữ khi mang thai và nuôi con nhỏ.

Ba là: Tại điểm c khoản 2 Điều 8 quy định về đối tượng vay vốn hỗ trợ việc làm, duy trì, mở rộng việc làm: nhất trí với ý kiến rà soát để bổ sung thêm các nhóm đối tượng đảm bảo tính công bằng. Theo đó, đề nghị BST nghiên cứu mở rộng đối tượng đối với “Người lao động là người dân tộc thiểu số” và “Người lao động đang sinh sống tại vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”.

Đồng thời, để thuận tiện trong quá trình áp dụng, đề nghị giải thích, làm rõ cụm từ “các đối tượng ưu tiên vay vốn” quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều này là gồm đối tượng nào? 

Bốn: Về chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho người cao tuổi (Điều 17)
Người cao tuổi (NCT) là đối tượng yếu thế, khả năng tìm kiếm việc làm và khả năng lao động rất hạn chế; vì vậy luật quy định về chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho người cao tuổi nhằm tăng cường sự tham gia của NCT đối với thị trường lao động là rất cần thiết. Tại dự thảo Luật có quy định 05 chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho NCT bao gồm: (1) Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng nghề; (2) Đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia; (3) Tư vấn việc làm; tư vấn chính sách, pháp luật về lao động, việc làm, đào tạo nghề qua trung tâm dịch vụ việc làm; (4) Giới thiệu việc làm, cung cấp thông tin thị trường lao động qua trung tâm dịch vụ việc làm; (5) Cho vay vốn hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc làm từ nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm theo quy định tại Mục 2 Chương này.

Tuy nhiên, nhận thấy các chính sách này chưa sát, chưa phù hợp với nhu cầu thực tiễn của NCT, thậm chí có những chính sách không có tính khả thi trên thực tế, không thiết thực khi quy định trong luật như chính sách “Đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia”. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục nghiên cứu để đề ra các chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho NCT sát hơn với thực tế, ví dụ như chính sách hỗ trợ, hướng dẫn, rút ngắn thời gian giải quyết các thủ tục, hồ sơ liên quan đến giải quyết việc làm của người cao tuổi; hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm đầu ra thông qua việc làm của NCT...

Năm là: Về Trung tâm Dịch vụ việc làm Điều 49, Điều 50 dự thảo Luật cho thấy chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm Dịch vụ việc làm là những nội dung riêng, có thể sửa đổi, bổ sung trong quá trình thực hiện, thuộc trách nhiệm quy định của các Bộ quản lý chuyên ngành, vì vậy, đề nghị không quy định trong luật nội dung này mà giao cho Bộ có thẩm quyền quy định, đảm bảo sự chủ động trong quá trình thực hiện nếu có sửa đổi, bổ sung; đồng thời phù hợp với tinh thần đổi mới tư duy trong xây dựng pháp luật là luật chỉ quy định những vẫn đề chung, những vấn đề mang tính nguyên tắc.

Sáu là:Về đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp (Điều 56), thống nhất với các nhóm đối tượng được quy định tại dự thảo Luật và cũng thống nhất cao với việc quy định tại khoản 4 Điều 56 dự thảo Luật, theo đó giao “Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc tham gia bảo hiểm thất nghiệp đối với đối tượng khác ngoài đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này mà có việc làm, thu nhập ổn định, thường xuyên trên cơ sở đề xuất của Chính phủ phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ” với quy định trên đảm bảo tính linh động, chủ động trong quá trình áp dụng. Tuy nhiên, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bổ sung nhóm “chủ hộ kinh doanh của hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh theo quy định” vào đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp tại dự thảo Luật này, vì đây là nhóm đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội vừa được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2024 và có hiệu lực từ 01/7/2015 và mặt khác, trong quá trình hoạt động kinh doanh nhóm đối tượng này có thể gặp khó khăn dẫn đến mất việc làm và thất nghiệp. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc đối tượng này.

Phòng Công tác Quốc hội (tổng hợp)

More