Thống kê truy cập

Số lượng và lượt người truy cập

  • Online 12

  • Hôm nay 4394

  • Tổng 2.963.550

Trả lời ý kiến, kiến nghị của đại biểu HĐND tỉnh tại phiên thảo luận kỳ họp thứ 2- HĐND tỉnh khóa XVIII

Post date: 19/10/2021

Font size : A- A A+

 

Nội dung trả lời ý kiến, kiến nghị của Đại biểu HĐND tỉnh tại phiên thảo luận kỳ họp thứ 2- HĐND tỉnh khóa XVIII

 

1. Tổ đại biểu HĐND tỉnh đơn vị huyện Quảng Trạch đề nghị tỉnh tích cực chỉ đạo việc giao đất, cho thuê đất, đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân, đặc biệt là hộ gia đình vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đang thiếu đất sản xuất, đất ở.

 

Trả lời

 

 Thực hiện Luật Đất đai, Nghị quyết số 30/2012/QH13 của Quốc hội, Chỉ thị số 1474/CT-TTg ngày 24/8/2011 và Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 04/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ về tập trung chỉ đạo và tăng cường thực hiện công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, UBND tỉnh, Sở Tài nguyên và Môi trường đã có nhiều văn bản hướng dẫn, đôn đốc và tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo các huyện đẩy nhanh công tác cấp giấy chứng nhận cho các hộ gia đình, cá nhân.

 

Tính đến nay, toàn tỉnh đã cấp được 540.375 giấy cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, với diện tích 186.021,54 ha đạt 86,58% (riêng huyện Quảng Trạch đã cấp được 61.078 giấy cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, với diện tích 11.928,47 ha đạt 90,18% diện tích đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận). Phần diện tích còn lại chưa cấp giấy chứng nhận chủ yếu là sử dụng đất ở trước ngày 01/7/2004 có vi phạm về quy hoạch; đất được giao không đúng thẩm quyền nay không phù hợp với quy hoạch; các trường hợp vi phạm pháp luật về đất đai và xây dựng sau ngày 01/7/2004 nay không phù hợp với quy hoạch… Do vậy, vẫn còn một số trường hợp người dân đang sử dụng đất nhưng không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Trong trường hợp này, người sử dụng đất vẫn có nghĩa vụ đăng ký đất đai và được ghi nhận tình trạng pháp lý không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận vào sổ địa chính đối với diện tích đất đang sử dụng.

 

Để xử lý vấn đề Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh đơn vị huyện Quảng Trạch đã kiến nghị, đề nghị UBND huyện Quảng Trạch nói riêng, UBND các huyện, thành phố, thị xã nói chung theo thẩm quyền chỉ đạo phòng Tài nguyên và Môi trường, UBND cấp xã rà soát các trường hợp đang sử dụng đất chưa được cấp Giấy chứng nhận lần đầu để thông báo và hướng dẫn người dân đăng ký đất đai và đề nghị cấp Giấy chứng nhận; chỉ đạo và thực hiện cấp Giấy chứng nhận lần đầu theo đúng thẩm quyền, đúng pháp luật về điều kiện, đối tượng được cấp Giấy chứng nhận theo đúng các quy định của Luật Đất đai.

 

 Về thực hiện chính sách đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số: thực hiện Nghị định số 118/2014/NĐ-CP ngày 17/12/2014 của Chính phủ về sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp; Đề án nâng cao hiệu quả đất đai có nguồn gốc tà các nông, lâm trường quốc doanh và chủ trương, chính sách giao đất ở, đất sản xuất cho các hộ dân sống gần rừng thiếu đất sản xuất, đồng bào dân tộc thiểu số, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND các huyện phối hợp các nông, lâm trường tập trung rà soát, đề xuất UBND tỉnh thu hồi một phần diện tích đất các nông, lâm trường để giao cho đồng bào dân tộc thiểu số, các hộ nghèo sống gần rừng ổn định sản xuất. Theo đó, trong quá trình thực hiện rà soát đất lâm trường từ năm 2012 đến nay, UBND tỉnh thu hồi 22.722,21 ha (trong đó: huyện Lệ Thuỷ 10.713,21 ha; huyện Quảng Ninh 5.933,37 ha; huyện Bố Trạch 4.151,92 ha; huyện Tuyên Hoá 223,12 ha, huyện Quảng Trạch 1.297,59 ha, thành phố Đồng Hới 350,46 ha, thị xã Ba Đồn 52,54ha) đất của các công ty nông, lâm nghiệp và Ban quản lý rừng phòng hộ giao về địa phương quản lý để xét giao đất cho người dân sản xuất nhằm tạo sinh kế, ổn định cuộc sống cho các hộ sống gần rừng, các hộ đồng bào dân tộc thiểu số; hạn chế tình trạng lấn, chiếm đất để sản xuất của người dân. Trong đó, các huyện đã giao đất cho người dân được 7.625,06 ha, diện tích đang lập chưa giao 4.532,18 ha, diện tích còn lại là rừng tự nhiên, núi đá có địa hình phức tạp không giao cho dân sản xuất được là 10.564,97 ha, hiện UBND cấp xã mới có đất đang thực hiện trách nhiệm quản lý.

 

Thực hiện Quyết định số 2239/QĐ-UBND ngày 04/7/2019 của UBND tỉnh, Sở Tài nguyên và Môi trường đã có nhiều văn bản hướng dẫn, đôn đốc UBND các huyện, thành phố tập trung, khẩn trương chỉ đạo UBND cấp xã xây dựng phương án giao đất cho dân, trình UBND cấp huyện phê duyệt để thực hiện, cụ thể: Công văn số 1199/UBND-TNMT ngày 07/7/2021 và Công văn số 1419/UBND-TNMT ngày 30/7/2021 của UBND tỉnh; Công văn số 2608/STNMT-CCQLĐĐ ngày 21/12/2020 của Sở Tài nguyên và Môi trường. Tuy nhiên, đến nay các huyện vẫn chưa thực hiện giao đất, cấp Giấy chứng nhận cho người dân sản xuất đối với phần diện tích 4.532,18ha được UBND tỉnh giao về địa phương.

 

Theo quy định tại khoản 2 Điều 59 và khoản 2 Điều 105 của Luật Đất đai năm 2013 thì thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thuộc UBND cấp huyện. Do đó, đề nghị UBND các huyện, thành phố, thị xã tập trung chỉ đạo để triển khai thực hiện giao đất cho người dân thiếu đất sản xuất theo đúng quy định của Luật Đất đai đã được Sở Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn tại các văn bản nói trên nhằm sớm đưa quỹ đất UBND tỉnh đã giao về địa phương quản lý vào sử dụng và giải quyết nhu cầu đất sản xuất cho người dân như tổ Đại biểu HĐND tỉnh đơn vị huyện đã kiến nghị.

 

(Theo Báo cáo số 161/BC-STNMT ngày 11/10/2021 của của Sở Tài nguyên và Môi trường về trả lời các ý kiến, kiến nghị của đại biểu HĐND tỉnh tại phiên thảo luận kỳ họp thứ 2, HĐND tỉnh khóa XVIII)

 

2. Tổ đại biểu HĐND tỉnh đơn vị huyện Quảng Trạch đề nghị tỉnh rà soát lại các mỏ khai thác khoáng sản (nhất là các mỏ đá xây dựng), những mỏ nào gây ảnh hưởng môi trường, đời sống sinh hoạt của nhân dân, cảnh quan khu vực, dư luận không đồng tình thì không cấp mới, không gia hạn thêm thời gian khai thác, nhằm phát triển kinh tế - xã hội bền vững, tránh tạo ra điểm mất an ninh trật tự tại địa phương.

 

Trả lời:

 

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Quảng Bình có 125 giấy phép khai thác khoáng sản còn hiệu lực, trong đó có 50 Giấy phép khai thác khoáng sản đá làm vật liệu xây dựng thông thường. Trước khi được cấp phép, các đơn vị phải hoàn thành các thủ tục về môi trường, riêng các dự án khai thác đá phải lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Trong quá trình hoạt động, các đơn vị đã thực hiện quan trắc môi trường định kỳ, báo cáo Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên Môi trường huyện nơi đang hoạt động khai thác khoáng sản để kiểm tra, giám sát. Theo số liệu báo cáo của các đơn vị và qua kết quả thanh tra, kiểm tra hàng năm cho thấy phần lớn các đơn vị khai thác khoáng sản trên địa bản tỉnh cơ bản chấp hành đầy đủ công tác bảo vệ môi trường, các chỉ tiêu quan trắc khí thải, nguồn nước, chất lượng không khí…đa số đều nằm trong giới hạn, tiêu chuẩn cho phép. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, vẫn có một số đơn vị khai thác đá để xẩy ra tình trạng ô nhiễm môi trường cục bộ, ở một số thời điểm, một số vị trí do hoạt động nổ mìn, nghiền sang, vận chuyển sản phẩm làm phát sinh bụi ảnh hưởng đến đời sống của người dân trong khu vực, cụ thể như: một số mỏ đá tại xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch; xã Quảng Tiên, thị xã Ba Đồn; các mỏ đá tại xã Trường Xuân, huyện Quảng Ninh…Sau khi phát hiện sự việc, Sở Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với chính quyền địa phương kịp thời kiểm tra, xử lý; đồng thời, yêu cầu các đơn vị khắc phục và cam kết thực hiện đúng các nội dung bảo vệ môi trường đã được phê duyệt. Tuy nhiên do đặc thù của hoạt động sản xuất, hạ tầng giao thông phục vụ vận chuyển sản phẩm đấu nối vào các mỏ đá chưa đồng bộ; lưu lượng phương tiện tham gia giao thông lớn, thời tiết hanh khô, gió lào nên việc gây bụi cuốn trong quá trình vận chuyển, phát tán bụi do nổ mìn, do chế biến đá ra môi trường đến nay chưa được khắc phục triệt để. Tiếp thu ý kiến của tổ đại biểu HĐND tỉnh đơn vị huyện Quảng Ninh. Trong thời gian tới, Sở tài nguyên và Môi trường sẽ kiên quyết tham mưu UBND tỉnh không đưa vào quy hoạch các mỏ gần khu dân cư, tham vấn kỹ ý kiến cộng đồng trước khi đưa vào quy hoạch và thực hiện cấp phép; không đề xuất gia hạn các mỏ đá hết thời hạn nhưng quá trình hoạt động gây ảnh hưởng lớn đến môi trường sống của người dân. Đồng thời, sẽ tăng cường kiểm tra, xử lý nghiêm các đơn vị đang hoạt động có vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của người dân.

 

(Theo Báo cáo số 161/BC-STNMT ngày 11/10/2021 của của Sở Tài nguyên và Môi trường về trả lời các ý kiến, kiến nghị của đại biểu HĐND tỉnh tại phiên thảo luận kỳ họp thứ 2, HĐND tỉnh khóa XVIII)

 

3. Tổ đại biểu HĐND tỉnh đơn vị huyện Bố Trạch đề nghị các sở, ngành, đơn vị chức năng có liên quan tăng cường công tác phối hợp với cấp huyện, cấp xã trong việc rà soát, đánh giá lại trữ lượng tài nguyên khoáng sản các mỏ đất, cát, sạn trên địa bàn tỉnh để cấp phép khai thác đảm bảo sát, đúng với thực tế nhằm tránh thất thu thuế.

 

Trả lời:

 

Theo quy định của Luật Khoáng sản 2010, tất cả các dự án khai thác khoáng sản, trong đó có đất làm vật liệu san lấp và cát, sạn lòng sông trước khi được cấp phép phải thực hiện công tác thăm dò, đánh giá trữ lượng được Hội đồng thẩm định do UBND tỉnh thành lập thông qua và cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Kết quả thẩm định đánh giá trữ lượng, chất lượng khoáng sản là cơ sở để UBND tỉnh Quyết định cấp Giấy phép khai thác khoáng sản là căn cứ pháp lý để doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ tài chính với nhà nước theo quy định của pháp luật và Giấy phép đã cấp.

 

Tiếp thu ý kiến thảo luận của Tổ Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh đơn vị huyện Bố Trạch, Sở tài nguyên và Môi trường sẽ chỉ đạo các thành viên hội đồng thẩm định công tác thăm dò, đánh giá trữ lượng khoáng sản tỉnh tăng cường trách nhiệm, thực hiện đúng vai trò phản biện để đảm bảo tính khoa học, tính chính xác trong đánh giá trữ lượng, chất lượng khoáng sản khi xem xét kết quả báo cáo thăm dò của đơn vị được cấp phép. Đồng thời, Sở Tài nguyên và Môi trường cũng tăng cường trách nhiệm trong rà soát hồ sơ thăm dò, đánh giá trữ lượng; tổng hợp phân tích các ý kiến phản biện để đảm bảo tính chính xác trong xác định trữ lượng, chất lượng khoáng sản trình UBNd tỉnh phê duyệt và thực hiện cấp phép khai thác theo đúng quy định của pháp luật. 

 

(Theo Báo cáo số 161/BC-STNMT ngày 11/10/2021 của của Sở Tài nguyên và Môi trường về trả lời các ý kiến, kiến nghị của đại biểu HĐND tỉnh tại phiên thảo luận kỳ họp thứ 2, HĐND tỉnh khóa XVIII)

 

4. Tổ đại biểu HĐND tỉnh đơn vị huyện Bố Trạch đề nghị sở, ban, ngành chức năng tăng cường chỉ đạo tháo gỡ những vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các thủ tục trong quy trình tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất tại các địa phương để giúp các địa phương thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội hàng năm.

 

Trả lời:

 

Để cụ thể hóa việc tổ chức thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất khi nhà nước giao đất, cho thuê đất có thu tiền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai 2013, ngày 04/4/2015 Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư 14/2015/TTLT-BTNMT-BTP Quy định việc tổ chức thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất, trong đó đã quy định rõ, chi tiết trình tự, thủ tục tổ chức thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất.

 

UBND tỉnh cũng đã có nhiều văn bản chỉ đạo các sở, ban, ngành và địa phương liên quan đến tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất trên địa bàn tỉnh (Công văn số 731/UBND-NC ngày 18/5/2018; Công văn số 899/UBND-NC ngày 27/5/2020; Thông báo số 3253/TB-VPUBND ngày 14/9/2020); Các sở ngành chuyên môn cũng đã có các văn bản hướng dẫn, để tháo gỡ vướng mắc (Sở Tư pháp đã có Công văn số 1692/STP-BTTP ngày 29/6/2020 về việc hướng dẫn chấm điểm các tiêu chí lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản…); đồng thời, để các địa phương chủ động, UBND tỉnh đã phân cấp, ủy quyền cho UBND các huyện, thị xã, thành phố các công việc như: phê duyệt kế hoạch thu hồi đất, thông báo thu hồi đất, phê duyệt và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng, xác định giá đất, phê duyệt phương án đấu giá quyền sử dụng đất theo thẩm quyền, đảm bảo quy định hiện hành. Nhìn chung, sau gần 05 năm triển khai thi hành Luật Đấu giá tài sản, công tác quản lý nhà nước về đấu giá tài sản đã đi vào nề nếp, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành và địa phương trong quá trình tổ chức các cuộc đấu giá, đảm bảo tính trung thực, khách quan, công khai, minh bạch và tuân thủ đúng quy định pháp luật.

 

Theo chức năng, nhiệm vụ, Sở Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu cho UBND tỉnh thực hiện việc giao đất cho UBND cấp huyện, cấp xã kịp thời, theo đúng quy định tại Quyết định số 4142/QĐ-UBND ngày 27/11/2018 của UBND tỉnh về việc công bố thủ tục hành chính về lĩnh vực đất đai áp dụng cho đối tượng là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện dự án đầu tư, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Vướng mắc trong thực hiện thủ tục và quy trình giao đất để thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất đến nay Sở chưa nhận được báo cáo cụ thể của đơn vị nào. Tuy nhiên, qua xử lý hồ sơ giao đất để đấu giá quyền sử dụng đất, Sở Tài nguyên và Môi trường nhận thấy phần lớn các công trình dự án thường vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng, quy chủ sử dụng đất, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất… Những nội dung này thuộc trách nhiệm và nhiệm vụ của UBND cấp xã, trách nhiệm chỉ đạo và phê duyệt của UBND cấp huyện. Do đó, để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các thủ tục trong công tác tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất tại các địa phương, đề nghị UBND cấp huyện chỉ đạo, hướng dẫn UBND cấp xã phải tổ chức thực hiện đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; lập quy hoạch, kế hoạch đất sát với nhu cầu thực tế và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; tăng cường công khai minh bạch trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất bị thu hồi để đưa vào đấu giá quyền sử dụng đất…Các vấn đề vướng mắc vượt quá thẩm quyền giải quyết hoặc lúng túng khi áp dụng pháp luật trong thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng cần kịp thời tổng hợp báo cáo về Sở tài nguyên và Môi trường hoặc UBND tỉnh để được hướng dẫn. Sở Tài nguyên và Môi trường cam kết sẽ hướng dẫn kịp thời các vấn đề thuộc thẩm quyền và báo cáo đề xuất cấp có thẩm quyền cho ý kiến chỉ đạo các vấn đề ngoài thẩm quyền của Sở để kịp thời tháo gỡ cho các địa phương.

 

(Theo Báo cáo số 161/BC-STNMT ngày 11/10/2021 của của Sở Tài nguyên và Môi trường về trả lời các ý kiến, kiến nghị của đại biểu HĐND tỉnh tại phiên thảo luận kỳ họp thứ 2, HĐND tỉnh khóa XVIII)

 

5. Tổ đại biểu HĐND tỉnh đơn vị thành phố Đồng Hới đề nghị tăng cường công tác quản lý thuế, triển khai các biện pháp mạnh mẽ quyết liệt đối với những doanh nghiệp cố tình chây ỳ, dù vẫn đang hoạt động sản xuất, kinh doanh, khai thác tài nguyên, khoáng sản, … bình thường.

 

Trả lời:

 

TÌNH HÌNH QUẢN LÝ THUẾ, CHỐNG THẤT THU VÀ THU HỒI NỢ ĐỌNG THUẾ.

 

1. Kết quả đạt được.

 

Năm 2021, việc điều hành và thực thi hoạt động thu ngân sách Nhà nước trong bối cảnh nền kinh tế tỉnh còn nhiều khó khăn do phải khắc phục thiệt hại của trận lũ lụt lịch sử năm 2020 và tác động của dịch bệnh Covid-19. Tuy nhiên dưới sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và UBND tỉnh Quảng Bình, ngành Thuế đã tập trung tăng cường quản lý thu ngân sách và thu hồi nợ đọng thuế để phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách Nhà nước năm 2021 được giao.

 

Dự toán ngân sách Nhà nước năm 2021 được Bộ Tài chính giao cho tỉnh Quảng Bình là 4.178,4 tỷ đồng. Sau khi xem xét các yếu tố về kinh tế, khả năng khai thác nguồn thu, HĐND tỉnh quyết định giao nhiệm vụ thu NSNN năm 2021 cho Ngành thuế tỉnh là 4.928,4 tỷ đồng.

 

Kết quả, 8 tháng đầu năm 2021, thu ngân sách trên địa bàn tỉnh được 3.849,6  tỷ đồng, đạt 92,1% so với dự toán Trung ương giao, đạt 78,1% dự toán địa phương giao, tăng 18,4% so với cùng kỳ; nếu trừ thu tiền sử dụng đất thì thu được 1.711,3 tỷ đồng, đạt 72% dự toán Trung ương giao, đạt 70,5% dự toán tỉnh giao, bằng 96,9 so với cùng kỳ.

 

Để đạt được kết qua đó, Cục Thuế  tỉnh Quảng Bình thực hiện tốt các chức năng quản lý: Tuyên truyền, hỗ trợ, Kê khai, kiểm tra và Quản lý nợ thuế.

 

- Đã tích cực phối hợp với các cơ quan truyền thông đẩy mạnh tuyên truyền các chính sách thuế mới, các văn bản hướng dẫn chính sách pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng, trang thông tin điện tử của Cục Thuế. Thực hiện tốt cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” trong tiếp nhận hồ sơ và trực tiếp tư vấn các thủ tục hành chính về thuế cho NNT. Thực hiện biểu dương những tổ chức cá nhân chấp hành tốt nghĩa vụ nộp thuế, đồng thời thông tin công khai những tổ chức, cá nhân có số nợ lớn, chây ì, nợ đọng kéo dài trên các kênh website Cục Thuế tỉnh Quảng Bình, báo, đài truyền hình tỉnh Quảng Bình.

 

- Công tác kê khai và kế toán thuế những tháng đầu năm 2021 đều thực hiện tốt. Tỷ lệ nộp tờ khai toàn ngành thuế đạt 99%. Công tác hoàn thuế GTGT được thực hiện đúng pháp luật, quy trình đề ra đã góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp;Triển khai hoàn thuế điện tử có hiệu quả;Thực hiện việc miễn, giảm, giản, gia hạn và hỗ trợ các hộ kinh doanh gặp khó khăn, thiệt hại trong thiên tai, dịch bệnh theo đúng chủ trương của Chính phủ.

 

- Công tác thanh tra, kiểm tra góp phần quan trọng trong tăng cường hiệu quả thu ngân sách Nhà nước. Qua thanh tra, kiểm tra, giám sát hồ sơ khai thuế, ngành Thuế từng bước nâng cao tính tuân thủ pháp luật của người nộp thuế trong việc thực hiện kê khai, tính thuế, nộp thuế, đảm bảo khai đúng, nộp đủ, nộp kịp thời số thuế phát sinh phải nộp vào ngân sách Nhà nước.

 

Từ đầu năm 2021, Cục Thuế tỉnh Quảng Bình đã triển khai thực hiện kế hoạch thanh, kiểm tra đã được Tổng cục Thuế phê duyệt. Thực hiện kiểm tra hồ sơ tại trụ sở cơ quan thuế, kiểm tra sau hoàn, trước hoàn và các trường hợp đột xuất nếu có phát sinh. 8 tháng đầu năm 2021 đã thanh, kiểm tra 414 cuộc, xử lý truy thu, phạt, giảm khấu trừ 51,7 tỷ đồng; giảm lỗ 571,5 tỷ đồng, thu hồi hoàn thuế GTGT 54,4 triệu đồng, loại trừ không được hoàn 101 triệu đồng.

 

2. Công tác chống thất thu, Quản lý và thu hồi nợ thuế.

 

2.1 Công tác chông thất thu thuế.

 

Xác định chống thất thu thuế là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác quản lý thuế nhằm góp phần đảm bảo nguồn thu cho NSNN, lãnh đạo Cục Thuế đã quyết liệt chỉ đạo triển khai các đề án, kế hoạch chống thất thu ở các lĩnh vực khai thác tài nguyên, khoáng sản; kinh doanh sản phẩm gỗ từ rừng trồng, lĩnh vực kinh doanh xăng dầu. Thường xuyên phối hợp với các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương để thực hiện kiểm tra, đối chiếu, đôn đốc các tổ chức, doanh nghiệp thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế.

 

Dịch bệnh Covid 19 đã ảnh hưởng rất lớn đến tình hình phát triển kinh tế các doanh nghiệp, cá nhân và người nộp thuế nói chung và ngành du lịch, dịch vụ khách sạn, nhà hàng nói riêng. Mặc dù không triển khai kế hoạch nhưng Cục Thuế vẫn bám sát chỉ đạo các Chi cục Thuế, các Phòng liên quan tăng cường công tác chống thất thu ở những địa bàn du lịch trọng điểm của tỉnh thông qua công tác kiểm tra, thanh tra chấp hành pháp luật thuế của các đơn vị kinh doanh trong lĩnh vực nhà hàng khách sạn; tiếp tục duy trình Đề án chống thất thu trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu; quản lý hộ kinh doanh cá thể.

 

Công tác chống thất thu thuế nhận được sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo chính quyền các cấp, sự phối hợp của các Sở, ban ngành trong tỉnh. Trong 8 tháng đầu năm 2021, Cục Thuế đã triển khai nhiều giải pháp quản lý, chống thất thu thuế trên các lĩnh vực và đã phát hiện truy thu, xử phạt thu nộp hàng tỷ đồng vào Ngân sách nhà nước.

 

2.2. Công tác quản lý, cưỡng chế và thu hồi nợ đọng thuế.

 

Trong thời gian qua công tác quản lý nợ thuế đã được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm góp phần vào việc hoàn thành dự toán thu hàng năm của ngành; vì vậy, ngoài việc tuyên truyền cho người nộp thuế nhận thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình với Nhà nước, Cục Thuế đã triển khai đồng loạt các biện pháp để thu nợ đọng thuế:

 

- Thực hiện Chỉ thị số 04/CT-BTC ngày 15/10/2018 của Bộ Tài chính về tăng cường công tác quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế để giảm nợ đọng ngành thuế quản lý. Cục Thuế đã thực hiện giao chỉ tiêu thu nợ thuế cho các đơn vị trong ngành; chỉ đạo các Chi cục Thuế và các Phòng liên quan xây dựng phương án xử lý nợ đọng thuế chi tiết đến từng doanh nghiệp, thực hiện phân công, giao nhiệm vụ xử lý nợ đọng thuế cụ thể đối với các tổ chức, cá nhân nợ thuế cho từng đồng chí lãnh đạo Cục Thuế, lãnh đạo Phòng, Chi cục Thuế và từng cán bộ tham gia quản lý nợ thuế, gắn trách nhiệm thực hiện xử lý nợ thuế với việc bình xét thi đua.

 

 - Trên cơ sở thực trạng tình hình nợ đọng thuế của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn, rà soát phân loại nợ, tổng hợp chính xác số tiền nợ, phân tích nguyên nhân nợ của từng đối tượng nợ thuế để có giải pháp đôn đốc thu nợ hiệu quả. Hàng tháng ban hành các thông báo tiền nợ thuế và tiền chậm nộp kết hợp đôn đốc thu nợ thường xuyên bằng phương pháp làm việc qua điện thoại hoặc mời đơn vị đến tại cơ quan Thuế làm việc.

 

- Áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo luật định đối với các đơn vị nợ thuế trên 90 ngày, dây dưa, chiếm dụng tiền thuế như cưỡng chế bằng biện pháp trích tài khoản, cưỡng chế bằng biện pháp thông báo hóa đơn không còn giá trị sử dụng.

 

- Phối hợp với Kho bạc Nhà nước tỉnh thực hiện khấu trừ tại nguồn đối với số tiền nợ thuế của các đơn vị xây dựng cơ bản bằng vốn ngân sách; phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Kế hoạch và đầu tư để thu nợ đọng thuế qua việc cấp mới, gia hạn quyền khai thác khoáng sản, tiền thuê đất, cấp phép mới, gia hạn dự án đầu tư. Thực hiện thu nợ đọng thuế qua công tác hoàn thuế.

 

- Đôn đốc, thu nợ đọng thuế đối với hoạt động khai thác khoáng sản và thuê đất trên địa bàn, đặc biệt là xử lý các khoản nợ đọng tiền thuê đất, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản trên địa bàn theo chỉ đạo của UBND tỉnh tại công văn số 1402/UBND-TH ngày 27/8/2019. Tham mưu cho UBND tỉnh mời các Doanh nghiệp hoạt động khai thác khoáng sản có số nợ thuế lớn để đôn đốc nộp tiền thuế nợ vào NSNN đúng thời hạn.

 

- Hàng tháng thực hiện công khai danh sách các doanh nghiệp đang còn nợ thuế; đặc biệt đối với các doanh nghiệp dây dưa chây ỳ nợ thuế lớn trên các phương tiện thông tin đại chúng (như: website Cục Thuế tỉnh Quảng Bình  Báo Quảng Bình và Đài Phát thanh và Truyền hình Quảng Bình).

 

 Trong 8 tháng đầu năm 2021, Cục Thuế đã ban hành 205.759 lượt thông báo để đôn đốc thu nợ thuế, 357 quyết định cưỡng chế để thu hồi nợ đọng thuế, trong đó cưỡng chế bằng biện pháp trích tài khoản 328 lượt, cưỡng chế bằng biện pháp thông báo hóa đơn không còn giá trị sử dụng 29 trường hợp. Bằng các biện pháp đôn đốc thu nợ và cưỡng chế nợ thuế, đơn vị đã thu được 194 tỷ đồng, trong đó, thu nợ năm 2020 chuyển qua gần 93,3 tỷ đồng.

 

Mặc dù đã áp dụng nhiều biện pháp quyết liệt nhưng nợ thuế vẫn tăng cao. Đến ngày 31/8/2021, tổng nợ thuế toàn tỉnh ước là: 585 tỷ đồng, tăng so với thời điểm 31/12/2020: 131 tỷ. Trong đó:

 

+ Nợ khó thu (không có khả năng thu) của các đơn vị giải thể, phá sản, bỏ địa điểm kinh doanh là 82 tỷ đồng, chiếm 14%.

 

+ Nợ có khả năng thu là 503 tỷ đồng, chiếm 86%.

 

Nguyên nhân nợ tăng cao.

 

- Do các đơn vị gặp khó khăn trong quá trình SXKD, thu hồi công nợ, khả năng thanh toán thấp dẫn đến nợ thuế như: Công ty CP sản xuất VLXD Cosevco I; Công ty TNHH MTV Công nghiệp tàu thủy Quảng Bình; Công ty Cổ phần Xây dựng Đại Phúc; Công ty CP Khoáng sản Hoàng Long; Công ty CP Khoáng sản Đá Việt; Công ty TNHH Kaolin Quảng Bình-Bohemia; Công ty TNHH Việt Hà.

 

- Một số doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực hoạt động khai thác khoáng sản, khu nghỉ dưỡng chậm triển khai làm phát sinh khoản nợ tiền thuê đất, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, tiền chậm nộp như: Công ty CP bột đá chất lương cao Linh Thành; Công ty Cổ phần COSEVCO 6...Đặc biệt có 02 đơn vị phát sinh nợ lớn về thuế bảo vệ môi trường cụ thể: Công ty CP nhiên liệu Phúc Lâm- Chi nhánh Quảng Bình: 35,4 tỷ đồng; Công ty TNHH sản xuất- thương mại Hưng Phát: 47,4 tỷ đồng.

 

- Ý thức chấp hành pháp luật thuế của một số doanh nghiệp, người nộp thuế chưa cao, còn chây ỳ, chiếm dụng tiền thuế. Sự phối hợp giữa các cấp các ngành trong tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, trong thu hồi và cưỡng chế nợ thuế còn hạn chế, hiệu quả chưa cao.

 

- Một số doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ thua lỗ những năm trước, có nợ thuế lớn, mặc dù cơ quan thuế đã cưỡng chế nhưng vẫn không có khả năng nộp thuế dẫn đến nợ thuế lớn, kéo dài

 

- Nguyên nhân khách quan là do thiên tai, bão lụt cuối năm 2020 tại các tỉnh miền trung. Đại dịch Covid-19 diễn ra vào năm 2020 và bùng phát trở lại trong năm 2021 đã làm cho nhiều người nộp thuế bị thiệt hại nặng nề, sản xuất kinh doanh thua lỗ, phải ngừng hoặc chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh, không còn nguồn tài chính để nộp tiền thuế nợ cho NSNN.

 

II. CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT.

 

1. Các giải pháp cần thực hiện trong thời gian tới.

 

1.1. Về công tác quản lý thuế.

 

- Tiếp tục bám sát Nghị quyết, Chỉ thị của Chính phủ, HĐND, UBND tỉnh, chỉ đạo, điều hành của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế về các nhiệm vụ giải pháp chủ yếu về thực hiện nhiệm vụ tài chính - ngân sách; triển khai đồng bộ có hiệu quả các biện pháp quản lý thuế.

 

- Căn cứ dự toán cả năm và các quý, tiếp tục tổ chức rà soát, đánh giá, phân tích dự báo những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn thu NSNN trên địa bàn như để xây dựng các kịch bản quản lý và thu ngân sách theo quý 4 năm 2021 để điều hành thực hiện dự toán; chủ động tìm kiếm, đề xuất UBND các cấp các giải pháp, nguồn thu có tiềm năng lớn để bù đắp thu NSNN.

 

- Tuyên truyền, triển khai đầy đủ, kịp thời các chế độ, chính sách của Chính phủ nhằm hỗ trợ những đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19 như giảm, giãn thuế, phí; tạo mọi điều kiện thuận lợi để NNT thực hiện nghĩa vụ thuế.

 

- Nắm chắc diễn biến tình hình kinh tế-xã hội, tình hình hoạt động SXKD trên địa bàn để kịp thời tham mưu đề xuất các giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho người nộp thuế, hỗ trợ, tạo điều kiện để người nộp thuế khôi phục SXKD trong tình hình mới.

 

- Tiếp tục cải cách hiện đại hóa hệ thống thuế, đơn giản hóa thủ tục hành chính thuế, duy trì dịch vụ kê khai, nộp thuế, hoàn thuế điện tử, hóa đơn điện tử.

 

 1.2. Về công tác chống thất thu và thu hồi nợ đọng thuế.

 

1.2.1. Công tác chống thất thu thuế.

 

 - Toàn ngành tiếp tục triển khai các kế hoạch, đề án chống thất thu và thu hồi nợ đọng thuế đã được phê duyệt. Có các biện pháp chỉ đạo quyết liệt và kiểm tra giám sát chặt chẽ cán bộ công chức trong thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời có các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc cho các bộ phận  chức năng  trong quá trình thực hiện. Kịp thời phản ảnh những vướng mắc cần sự chỉ đạo chung để Cục Thuế có sự chỉ đạo thống nhất.

 

 - Nắm chắc tình hình hoạt động, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp mua bán, khai thác, vận chuyển tài nguyên, khoáng sản. Tranh thủ sự chỉ đạo của chính quyền địa phương, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong khâu thực hiện quản lý thu. Xử lý những trường hợp không chấp hành kê khai thực hiện nghĩa vụ nộp thuế và kê khai nộp thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường không đúng quy định.

 

 - Đẩy mạnh phối hợp với chính quyền địa phương, Hội đồng tư vấn thuế xã, phường, thị trấn tăng cường công tác quản lý đối với cá nhân kinh doanh sản phẩm có nguồn gốc từ rừng trồng. Thu thập thông tin các cá nhân mua sản phẩm rừng trồng do tổ chức, cá nhân trực tiếp khai thác bán ra để đưa hộ kinh doanh vào quản lý thu thuế.

 

 - Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp, xử phạt nghiêm các doanh nghiệp vi phạm về hóa đơn, về khai thuế. Phối hợp chặt chẽ với các ban ngành có liên quan tăng cường kiểm tra giám sát việc mua và bán xăng, dầu, trên địa bàn, hạn chế việc nhập lậu xăng, dầu.

 

   - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền hỗ trợ, hướng dẫn, động viên các hộ kinh doanh trong thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Công khai mức thuế hộ kinh doanh theo đúng quy định qua đó lấy ý kiến phản hồi để điều chỉnh mức thuế một cách hợp lý, đảm bảo công bằng giữa các hộ kinh doanh trên địa bàn quản lý.

 

  - Rà soát, phân tích hồ sơ của những đơn vị có số thu lớn, số nợ lớn trên các lĩnh vực khai thác tài nguyên, khoáng sản, khai thác gỗ, xây dựng cơ bản... để đưa vào kế hoạch kiểm tra đột xuất hoặc kế hoạch kiểm tra của năm sau.

 

1.2.2. Công tác quản lý, cưỡng chế và thu hồi nợ thuế.

 

- Tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt các biện pháp quản lý nợ thuế. Tổ chức phân loại, đánh giá các khoản nợ thuế của từng đối tượng để đưa ra giải pháp thu hồi nợ một cách hiệu quả. Đẩy mạnh công tác cưỡng chế nợ thuế, đảm bảo theo đúng quy trình và không bỏ sót đối tượng.

 

- Thông tin công khai những tổ chức, cá nhân có số nợ lớn, chây ì, nợ đọng kéo dài trên các kênh thông tin báo chí.

 

- Tập trung xử lý các bất cập trong công tác quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản làm phát sinh nợ khó thu.

 

- Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong tăng cường công tác thu hồi nợ đọng thuế đối với hoạt động xây dựng cơ bản, hoàn thuế, doanh nghiệp đang hoạt động đề nghị thực hiện dự án mới, đề nghị cấp giấy phép tài nguyên khoáng sản, chuyển nhượng dự án, chuyển nhượng tài sản gắn liền với đất, chuyển nhượng vốn góp. Phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường, rà soát những doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực khai thác tài nguyên và khoáng sản nhưng còn chây ì nợ tiền cấp quyền, thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường nhiều năm để kiến nghị UBND tỉnh có giải pháp xử lý triệt để.

 

2. Các kiến nghị, đề xuất.

 

Từ thực tiễn công tác quản lý thuế, chống thất thu và xử lý nợ đọng thuế, Cục Thuế đưa ra những kiến nghị, đề xuất sau:

 

- Đề nghị UBND tỉnh giao cho cơ quan thường trực chỉ đạo công tác phối hợp các ban ngành liên quan. Công tác phối hợp giữa Sở Tài nguyên và Môi trường và cơ quan Thuế phải được thực hiện thường xuyên và đầy đủ hơn. Theo đó Sở Tài nguyên Môi trường sẽ có trách nhiệm kiểm soát chặt chẽ khối lượng tài nguyên, khoáng sản doanh nghiệp khai thác hàng tháng, hàng năm và cung cấp số liệu này cho cơ quan Thuế để làm căn cứ kiểm tra, kiểm soát việc kê khai thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường của doanh nghiệp.

 

 - Các Sở, ban, ngành và chính quyền các cấp phối hợp triển khai công tác thu hồi nợ đọng thuế. Thành lập các đoàn liên ngành chống thất thu và thu hồi nợ đọng của tỉnh và của các huyện, thị xã, thành phố. Phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo chống thất thu và thu hồi nợ đọng thuế và hội đồng tư vấn thuế xã, phường, thị trấn trong công tác thu hồi nợ thuế;

 

- Đề xuất lập các đoàn kiểm tra liên ngành gồm cơ quan Thuế, cơ quan Tài nguyên Môi trường, Công an và Quản lý thị trường để kiểm tra nguồn gốc, giấy tờ hóa đơn kèm theo đối với tài nguyên, khoáng sản khai thác, vận chuyển trên đường và việc kê khai nộp thuế tài nguyên, phí BVMT theo quy định;

 

Công tác quản lý thuế nói chung và công tác triển khai chống thất thu và thu hồi nợ đọng thuế nói riêng tuy đã thực hiện quyết liệt, đồng bộ, tuy nhiên chưa đồng đều, số truy thu xử lý một số lĩnh vực còn thấp. Do vậy trong thời gian tới, toàn ngành Thuế sẽ cố gắng nổ lực phấn đấu, tiếp tục triển khai toàn diện trên các lĩnh vực, tập trung vào những đối tượng trọng điểm tiềm ẩn khả năng thất thu thuế lớn để góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2021 và những năm tiếp theo.

 

(Theo Công văn số 1423/CTQBI-NVDTPC ngày 29/9/2021 của Cục thuế tỉnh Quảng Bình về việc trả lời các ý kiến, kiến nghị của đại biểu HĐND tỉnh tại phiên thảo luận kỳ họp thứ 2, HĐND tỉnh về tăng cường công tác quản lý thuế, chống thất thu và xử lý nợ đọng thuế)

 

6. Tổ đại biểu HĐND tỉnh đơn vị huyện Quảng Ninh đề nghị các cấp, các ngành có các giải pháp, tiếp tục xử lý tình trạng ô nhiểm môi trường tại khu vực mỏ đá xã Trường Xuân, nhà máy xi măng Áng Sơn xã Vạn Ninh.

 

Trả lời:

 

 

a) Về ô nhiễm môi trường khu vực mỏ đá Trường Xuân:

 

Qua kiểm tra theo phản ánh của cư tri, Sở tài nguyên và Môi trường đã báo cáo UBND tỉnh việc ô nhiễm môi trường tại mỏ đá Trường Xuân chủ yếu do bụi cuốn trên tuyến đường vận chuyển (tuyến đường có đoạn đi qua khu dân cư, nay đã bị xuống cấp nghiêm trọng) và một số nguyên nhân khác trong hoạt động nổ mìn và chế biến sản phẩm của các đơn vị khai thác mỏ. UBND tỉnh đã có Công văn số 1191/UBND-KT ngày 07/7/2021 chỉ đạo các ngành và hiện nay các ngành đang triển khai thực hiện, cụ thể:

 

- Sở Công Thương đang kiểm tra, rà soát lại phương án nổ mìn đã cấp phép cho các đơn vị khai thác mỏ đá trên địa bàn xã Trường Xuân nhằm đảm bảo việc nổ mìn không ảnh hưởng tới tài sản, đời sống của người dân.

 

- Công an tỉnh, Sở Giao thông Vận tải: tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát và xử lý nghiêm các vi phạm về vượt tải trọng, vượt tốc độ, làm rơi vãi đất, đá, phát tán bụi trong quá trình lưu thông của các phương tiện trên các tuyến đường liên xã trên địa bàn xã Trường Xuân; tổ chức đánh giá chất lượng các tuyến đường liên xã, cắm biển báo giao thông nhằm hạn chế tải trọng và tốc độ để đảm bảo an toàn giao thông.

 

- UBND huyện Quảng Ninh: Tập trung đôn đốc nhà thầu, các đơn vị có liên quan đẩy nhanh tiến độ xây dựng để sớm hoàn thành tuyến đường tránh sau khu du lịch núi Thần Đinh, xã Trường Xuân, đảm bảo quá trình vận chuyển sản phẩm khai thác mỏ và các hoạt động vận chuyển khác trong khu vực không làm ảnh hưởng tới đời sống và sinh hoạt của người dân; Tiếp tục tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác, vận chuyển đá trên địa bàn xã Trường Xuân, kịp thời phát hiện các vi phạm (nếu có) để xử lý theo thẩm quyền.

 

- Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành, đơn vị, địa phương liên quan tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành các quy định pháp luật để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm (nếu có) theo đúng quy định của pháp luật.

 

Theo chức năng, nhiệm vụ Sở tài nguyên và Môi trường sẽ phối hợp với các ngành để thực hiện tốt các chỉ đạo của UBND tỉnh nhằm sớm giải quyết triệt để vấn đề ô nhiểm môi trường trong hoạt động khai thác mỏ tại xã Trường Xuân.

 

b) Về ô nhiễm môi trường tại nhà máy xi măng Áng Sơn xã Vạn Ninh.

 

Việc phản ánh, kiến nghị của người dân thôn Áng Sơn, xã Vạn Ninh về vấn đề ô nhiễm môi trường do hoạt động của 02 nhà máy xi măng đã xãy ra nhiều năm và trong thời gian dài, nhiều lần người dân đã tụ tập cản trở hoạt động của các nhà máy.

 

Giải quyết kiến nghị của cử tri, UBND tỉnh, các nghành chức năng đã vào cuộc đưa ra nhiều giải pháp buộc 02 nhà máy phải thực hiện để đảm bảo môi trường sống của người dân. Hiện nay thuộc phạm vi Nhà máy xi măng Vicem Hải Vân đã thu hồi đất và bồi thường cho các hộ dân nằm trong khu vực bảo hộ vệ sinh để đảm bảo khoảng cách an toàn vệ sinh cho hoạt động của người dân. Riêng các hộ dân sinh sống thuộc phạm vi tiếp giáp nhà máy xi măng Áng Sơn của Công ty Cổ phần COSEVCO 6, do nhà máy làm ăn thua lỗ, tài sản của Công ty đang chờ ngân hàng xử lý nợ, nhà máy chỉ vận hành gia công nghiền clinker nên chưa bồi thường giải tỏa mặt bằng, đối với 15 hộ dân còn lại nằm trong khu vực bảo hộ vệ sinh. Để giải quyết vấn đề nêu trên, trước đây, UBND tỉnh đã chỉ đạo và bố trí vốn để UBND huyện Quảng Ninh xây dựng khu tái định cư nhằm di dời các hộ ra khỏi khu vực ô nhiễm. Song do khó khăn về nguồn vốn nên đến nay khu tái định cư vẫn chưa được xây dựng hoàn thành.

 

Người dân vẫn tiếp tục kiến nghị, phản ánh gay gắt đến các cấp lãnh đạo, các sở, ngành thuộc tỉnh và UBND huyện Quảng Ninh. UBND tỉnh đã thành lập Đoàn kiểm tra liên ngành để đánh giá, xác định, kết quả cho thấy: Nhà máy xi măng Vicem Hải Vân đến nay cơ bản đã thực hiện đầy đủ, đúng các giải pháp bảo vệ môi trường, lắp đặt xong hệ thống quan trắc môi trường tự động và truyền dẫn số liệu quan trắc về Sở Tài nguyên và Môi trường theo dõi, các thông số quan trắc của đoàn kiểm tra liên ngành về chất lượng không khí, hàm lượng bụi, tiếng ồn, khí thải, nước thải của nhà máy đều nằm trong giới hạn cho phép.

 

Nhà máy xi măng Áng Sơn, kết quả đo hàm lượng bụi tại khu vực đóng bao xi măng vượt quy chuẩn (là quay vượt 1,01 lần; lò đứng 1,52 lần); các chỉ tiêu quan trắc khác đều nằm trong giới hạn quy chuẩn cho phép. Ngoài ra, 1 số điểm quan trắc tiếng ồn tại khu dân cư Áng Sơn có vị trí sát đường, một số thời điểm vượt quy chuẩn cho phép do bị cộng hưởng của tiếng ồn từ các phương tiện vận chuyển nhưng mức độ không lớn. Đoàn kiểm tra liên ngành cũng đã xác định ngoài 1 số nội dung các nhà máy thực hiện chưa đảm bảo, nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường cho các hộ dân thôn Áng Sơn là bụi phát sinh trên tuyến đường vận chuyển, mặc dù 02 nhà máy đã có nổ lực cố gắng tưới nước phun ẩm, vệ sinh tuyến đường nhưng do thời tiết hanh khô, gió to, tuyến đường có lưu lượng lưu thông lớn (vận chuyển phục vụ hoạt động của nhà máy và lưu thông phục vụ các hoạt động sản xuất khai thác trong khu vực đều phải đi qua đoạn đường này) nên chưa giải quyết dứt điểm được hiện tượng bụi gây ảnh hưởng đến đời sống của người dân.

 

Để giải quyết vấn đề cử tri thôn Áng Sơn kiến nghị, phản ánh, UBND tỉnh đã có Thông báo số 2895/TBVPUBND ngày 02/8/2021 về Kết luận của đồng chí Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Đoàn Ngọc Lâm giao nhiệm vụ cho các ngành: Sở Tài Nguyên và Môi trường; Sở Kế hoạch – Đầu tư, Công an tỉnh, UBND huyện Quảng Ninh theo chức năng, nhiệm vụ thực hiện các giải pháp, giám sát hoạt động của 02 Nhà máy để giải quyết từng bước vấn đề ô nhiễm môi trường mà cử tri phản ánh. Hiện nay, các Sở, ngành, UBND huyện Quảng Ninh đang triển khai thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh. Tuy nhiên, để đảm bảo tính lâu dài và giải quyết căn cơ vấn đề cử tri phản ánh, Sở Tài nguyên và Môi trường đề nghị các cấp cần sớm bố trí vốn đầu tư để hoàn thiện khu tái định cư mà UBND tỉnh đã giao huyện Quảng Ninh xây dựng nhằm di dời các hộ dân nằm trong khu vực bảo hộ vệ sinh đến nơi ở mới để tránh các tác động không mong muốn từ quá trình sản xuát của 02 nhà máy gây ra.

 

(Theo Báo cáo số 161/BC-STNMT ngày 11/10/2021 của của Sở Tài nguyên và Môi trường về trả lời các ý kiến, kiến nghị của đại biểu HĐND tỉnh tại phiên thảo luận kỳ họp thứ 2, HĐND tỉnh khóa XVIII)

 

7.  Tổ đại biểu HĐND tỉnh đơn vị huyện Quảng Ninh phản ánh sau gần 2 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 58/2019/NQHĐND của HĐND tỉnh về một số chính sách đặc thù khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; đến nay, mới chỉ có 02 doanh nghiệp được hưởng chính sách. Do vậy đề nghị chỉ đạo rà soát để xem xét, tham mưu trình HĐND tỉnh sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 58/2019/NQ-HĐND cho phù hợp, doanh nghiệp dễ tiếp cận chính sách hơn.

 

Trả lời:

 

Sở Kế hoạch và Đầu tư trả lời như sau: Nhận thức vai trò và tầm quan trọng của công tác thu hút đầu tư đối với phát triển kinh tế xã hội của tỉnh; thời gian qua, UBND tỉnh đã tích cực chỉ đạo quyết liệt trong việc thực hiện cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, thông thoáng và minh bạch cho nhà đầu tư, doanh nghiệp. Nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn, trên cơ sở Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2020 của Chính phủ, Sở Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu cho UBND tỉnh trình HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số 58/2019/NQ-HĐND ngày 12/12/2019 về việc ban hành quy định chính sách đặc thù khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Bình với các nội dung hỗ trợ ngoài các chính sách doanh nghiệp được nhận hỗ trợ tại Nghị định số 57/2018/NĐ-CP: (i) Hỗ trợ đầu tư cơ sở chăn nuôi bò thịt; (ii) Hỗ trợ đầu tư cơ sở chế biến nông sản; (iii) Hỗ trợ đầu tư mới, cải tạo nâng cấp cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm.

 

Bên cạnh đó, để cụ thể hóa Nghị quyết số 58/2019/NQ-HĐND ngày 12/12/2019, hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoàn thiện hồ sơ và thủ tục nhận hỗ trợ được dễ dàng, Sở Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Quyết định số 10/2020/QĐ-UBND ngày 26/5/2020 về việc ban hành định mức hỗ trợ đối với từng loại hạng mục, công trình quy định tại Nghị quyết 58/2019/NQ-HĐND ngày 12/12/2019 của Hội đồng nhân dân 2 tỉnh quy định về chính sách đặc thù khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Hiện nay, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn cơ bản đã đầy đủ và được quy định cụ thể tại: Nghị định số 57/2018/NĐCP ngày 17/4/2020 của Chính phủ; Nghị quyết số 58/2019/NQ-HĐND ngày 12/12/2019 của HĐND tỉnh; Quyết định số 10/2020/QĐ-UBND ngày 26/5/2020 của UBND tỉnh và được công khai trên cổng thông tin điện tử của UBND tỉnh, trang thông tin điện tử của Sở Kế hoạch và Đầu tư để nhà đầu tư, doanh nghiệp dễ tiếp cận. Trong thời gian tới, đề nghị các địa phương phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn các nhà đầu tư, doanh nghiệp đáp ứng đủ các điều kiện nộp hồ sơ để hưởng các chính sách theo quy định của Trung ương và của tỉnh.

 

(Theo Công văn số 2629/KHĐT-QLĐT ngày 27/9/2021 của Sở Kế hoạch và Đầu tư về việc trả lời ý kiến, kiến nghị của đại biểu HĐND tỉnh tại phiên thảo luận kỳ họp thứ 2, HĐND tỉnh khóa XVIII)

 

8. Tổ đại biểu HĐND tỉnh  đơn vị huyện Lệ Thủy đề nghị tỉnh chỉ đạo các cơ quan, ban ngành liên quan tập trung rà soát, đánh giá chính xác thực trạng phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn huyện Lệ Thủy. Để từ đó tiến hành quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đảm bảo cân đối hàng hóa nông sản giữa các vùng miền và đáp ứng nhu cầu của thị trường.

 

Trả lời:

 

Thực hiện Quyết định số 1895/QĐ-TTg ngày 17/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (CNC) thuộc Chương trình Quốc gia phát triển CNC đến năm 2020. Những năm qua tỉnh Quảng Bình đã có chính sách, lồng ghép các nguồn vốn, triển khai nhiều giải pháp tích cực khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp ứng dụng CNC; bước đầu đạt được những kết quả quan trọng, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, thực hiện có hiệu quả Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Đến nay, toàn tỉnh có 30 cơ sở sản xuất nông nghiệp ứng dụng CNC; nhiều công nghệ mới, tiên tiến được áp dụng vào sản xuất (công nghệ tưới tiết kiệm nước Isarel cho cây ăn quả, hồ tiêu, cây dược liệu, áp dụng quy trình canh tác hữu cơ, thủy canh, sản xuất rau quả trong nhà màng, nhà lưới,…; công nghệ lai tạo giống, thụ tinh nhân tạo trong chăn nuôi; công nghệ cao trong quy trình nuôi và quản lý môi trường nuôi thủy sản, nhất là tôm nuôi,…), đã tạo ra các sản phẩm có năng suất, chất lượng, thích ứng với biến đổi khí hậu, đảm bảo VSATTP nông lâm thủy sản, đáp ứng nhu cầu thị trường.

 

Đối với huyện Lệ Thủy: Theo báo cáo của UBND huyện, hiện nay trên địa bàn có 06 cơ sở sản xuất nông nghiệp ứng dụng CNC với trên 53ha cây trồng (chủ yếu là cây ăn quả) ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước Israel; trên 11ha áp dụng quy trình công nghệ sản xuất an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP và 0,38ha sản xuất rau quả trong nhà màng; 06 trang trại chăn nuôi, 01 trang trại thủy sản, 03 cơ sở sản xuất lâm nghiệp ứng dụng CNC. Tuy nhiên, ứng dụng phát triển sản xuất nông nghiệp CNC trên địa bàn tỉnh nói chung và huyện Lệ Thủy nói riêng vẫn còn manh mún, hạn chế do đó chưa tạo được sự đột phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất. Số doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng CNC chưa nhiều; đặc biệt mối liên kết giữa các doanh nghiệp với nông dân chưa chặt chẽ; vẫn còn thiếu doanh nghiệp làm đầu mối liên kết trong sản xuất tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp theo chuỗi giá trị.

 

Để tiếp tục thực hiên tốt Đề án tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp trên địa bàn tỉnh, trong đó chú trọng, đặc biệt quan tâm đến phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC. Ngày 30/3/2020, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 481/KH-UBND về phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2020-2025; thành lập Ban chỉ đạọ phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC tỉnh,…chỉ đạo UBND các huyện, TX, TP thành lập Ban chỉ đạo và Tổ giúp việc BCĐ phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC cấp huyện. Trên cơ sở Kế hoạch của tỉnh, UBND cấp huyện có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chuyên môn, UBND các xã, phường, thị trấn rà soát diện tích, đối tượng cây trồng, vật nuôi, thủy sản có lợi thế tại từng địa phương và thị trường tiêu thụ, chủ trì phối hợp Sở Nông nghiệp và PTNT cung cấp số liệu cho Sở Kế hoạch và Đầu tư tích hợp vào Quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Quảng Bình tầm nhìn đến năm 2050. Như vậy, liên quan đến ý kiến thảo luận của Tổ Đại biểu đơn vị huyện Lệ Thủy nêu trên, Sở Nông nghiệp và PTNT đề nghị UBND huyện Lệ Thủy khẩn trương chỉ đạo thực hiện để có điều chỉnh về phát triển ứng dụng nông nghiệp CNC, kịp thời cung cấp cho Sở Kế hoạch và Đầu tư bổ sung.

 

(Theo Công văn số 2330/SNN-KHCN  ngày 18/9/2021 của Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về việc tham mưu trả lời kiến nghị của đại biểu HĐND tỉnh)

 

TTT

More