Thống kê truy cập

Số lượng và lượt người truy cập

  • Online 5

  • Hôm nay 2659

  • Tổng 6.779.976

Việc xác định nơi cư trú và nơi cư trú cuối cùng của một cá nhân

Post date: 13/11/2024

Font size : A- A A+

 

Quy định về nơi cư trú là một chế định pháp lý có ý nghĩa quan trọng liên quan đến các quan hệ dân sự của một cá nhân và quan hệ hành chính giữa một công dân với Nhà nước. Nơi cư trú của một cá nhân không chỉ đơn thuần là nơi sinh sống, tồn tại về mặt sinh học mà về mặt pháp lý thì nơi đó cá nhân xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự, nơi mở thừa kế, nơi xác định một cá nhân mất tích hoặc đã chết, là căn cứ lựa chọn thẩm quyền giải quyết, lựa chọn pháp luật áp dụng khi giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài, nơi công dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước trong quan hệ hành chính,… Do đó, việc xác định không đúng nơi cư trú của một cá nhân chắc chắn sẽ đem đến một hậu quả pháp lý bất lợi cho một trong các bên có liên quan khi tham gia vào các quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ dân sự nói riêng. Tầm quan trọng là vậy nhưng thực tế hiện nay việc xác định nơi cư trú và nơi cư trú cuối cùng của cá nhân đôi khi vẫn còn lúng túng, dẫn đến sự thiếu thống nhất, nhất là trong lĩnh vực tố tụng dân sự.

 

Nguyên nhân nhận thức chưa thống nhất về việc xác định nơi cư trú của cá nhân trước hết là do các văn bản quy phạm pháp luật quy định về vấn đề này có sự khác nhau dẫn đến có cách hiểu khác nhau. Cụ thể đó là, tại Điều 40 của Bộ luật Dân sự (Sau đây viết tắt là BLDS) năm 2015 quy định: “1. Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống. 2. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống”. Như vậy, BLDS năm 2015 đã không căn cứ vào yếu tố quản lý hành chính là nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú khi xác định nơi cư trú của cá nhân, đây là điểm mới có tính chất căn bản của chế định này so với BLDS năm 1995. Trong khi đó tại Điều 11 của Luật Cư  trú năm 2020 lại quy định: “1. Nơi cư trú của công dân gồm nơi thường trú, nơi tạm trú. 2. Trường hợp không xác định được nơi thường trú, nơi tạm trú thì nơi cư trú của công dân là nơi ở hiện tại…”. Như vậy, Luật Cư trú đã dựa vào hai tiêu chí đó là nơi đăng ký thường trú, tạm trú hoặc nơi ở hiện tại để xác định nơi cư trú của công dân. Từ sự khác biệt này nhiều người đã cho rằng quy định của BLDS và Luật Cư trú có sự vênh nhau thậm chí mâu thuẫn với nhau. Câu hỏi đặt ra cần phải giải quyết là quy định của BLDS và Luật cư trú có mâu thuẫn với nhau không?

 

Như trên đã nêu, BLDS năm 2015 đã quy định khác với BLDS năm 1995 về việc xác định nơi cư trú của cá nhân, tuy nhiên thực tế hiện nay nhiều người làm công tác pháp luật vẫn chưa nhận ra điều này hoặc là nhận thấy nhưng lại nhận thức chưa chính xác, phổ biến là khi áp dụng để giải quyết các vụ, việc dân sự. Cụ thể đó là, hiện nay nhiều nơi Toà án vẫn căn cứ vào yếu tố quản lý hành chính là nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú của bị đơn, người vắng mặt nơi cư trú, người bị yêu cầu tuyên bố mất tích, bị yêu cầu tuyên bố chết (sau đây gọi chung là người biệt tích) để xác định thẩm quyền giải quyết vụ, việc dân sự. Vậy, một câu hỏi về mặt pháp lý đặt ra là, việc các Toà án xác định như vậy có đúng với các quy định của pháp luật hiện hành hay không? Xung quanh vấn đề này hiện nay đang có hai quan điểm trái ngược nhau. Những người theo quan điểm như cách xác định đã nêu ở trên thì cho rằng: Để xác định nơi cư trú của một cá nhân thì không thể căn cứ vào quy định tại Điều 40 của BLDS mà phải căn cứ vào quy định tại Điều 11 của Luật Cư trú, vì theo quy định tại Điều 156 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 thì: “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau”. Mặt khác, BLDS là luật chung, còn Luật Cư trú là văn bản pháp luật chuyên ngành nên về nguyên tắc là ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành. Vậy nên, khi xác định thẩm quyền giải quyết vụ, việc dân sự theo lãnh thổ thì cần phải căn cứ vào việc bị đơn đăng ký hộ khẩu thường trú tại đâu, người đang biệt tích đã đăng ký hộ khẩu thường trú cuối cùng ở nơi nào trước khi biệt tích.

 

Theo quan điểm của cá nhân tôi thì việc nhận thức như vậy là không chính xác, không đúng với tinh thần hướng đến của các nhà làm luật. Để có nhận thức đúng đắn cần phải xem xét một cách thấu đáo, tận gốc bản chất của vấn đề. Ngược thời gian trở lại với BLDS năm 1995 thấy rằng, về cốt lõi tại khoản 1 Điều 48 của BLDS năm 1995 đã quy định cơ bản giống như Điều 11 của Luật Cư trú hiện nay, đó là: “Nơi cư trú của một cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống và có hộ khẩu thường trú. Trong trường hợp cá nhân không có hộ khẩu thường trú và không có nơi thường xuyên sinh sống, thì nơi cư trú của người đó là nơi tạm trú và có đăng ký tạm trú”. Như vậy điều dễ nhận thấy đó là, quy định về nơi cư trú của cá nhân theo quy định của BLDS năm 1995 đã không căn cứ vào thực tế sinh động của các quan hệ dân sự trong cuộc sống thường ngày mà lại căn cứ vào yếu tố quản lý hành chính nơi đăng ký thường trú hoặc tạm trú. Trong điều kiện nước ta đang phát triển nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, với sự năng động trong hoạt động sản xuất, kinh doanh thương mại, trong việc lựa chọn ngành nghề và nơi làm việc của mọi cá nhân thì việc một người ở địa phương này chuyển đến làm ăn, sinh sống tại một địa phương khác nhưng không cắt chuyển hộ khẩu thường trú hoặc không đăng ký tạm trú là chuyện khá phổ biến hiện nay. Trong trường hợp này nếu cứ căn cứ vào yếu tố đăng ký thường trú, tạm trú để xác định nơi cư trú của họ là không hợp lý, thiếu khoa học. Sở dĩ pháp luật lấy tiêu chí nơi cư trú của bị đơn để xác định thẩm quyền giải quyết vừa là để thuận lợi cho cả đương sự lẫn cơ quan nhà nước trong việc giải quyết vụ, việc dân sự; khi bị đơn ở nơi này mà lại giải quyết ở nơi khác thì chắc chắn sẽ gây khó khăn cho cả Toà án lẫn đương sự (đối với nguyên đơn khi họ khởi kiện thì phải có trách nhiệm nhiều hơn bị đơn). Do vậy, với thực tế sôi động của nền kinh tế, xã hội trong những năm qua thì quy định về việc xác định nơi cư trú của BLDS năm 1995 không còn phù hợp và sẽ kìm hãm sự phát triển của các quan hệ kinh tế, xã hội. Nhận ra vấn đề này chính vì vậy mà khi xây dựng BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 các nhà làm luật đã kịp thời “cởi trói” bằng việc bãi bỏ yếu tố quản lý hành chính mà chỉ quan tâm đến việc một người thường xuyên sinh sống hoặc đang sinh sống ở đâu để xác định nơi cư trú của cá nhân đó. Đối với Luật Cư trú trong quá trình soạn thảo, thông qua cũng đã có nhiều người đề nghị bãi bỏ việc đăng ký hộ khẩu để giảm sự phiền hà, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân làm ăn sinh sống và nhằm thực hiện tối đa quyền tự do đi lại, cư trú của công dân mà Hiến pháp năm 2013 đãy quy định. Tuy nhiên, cuối cùng thì đề nghị này đã không được Quốc hội chấp nhận, bởi lẽ là chưa đến lúc, vì trong điều kiện nước ta hiện nay việc quản lý công dân bằng việc đăng ký hộ khẩu thường trú và tạm trú vẫn còn cần thiết để bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn của xã hội.

 

Như vậy, quy định về việc xác định nơi cư trú của cá nhân trong hai văn bản quy phạm pháp luật nêu trên có sự khác nhau là điều đã rõ và dễ hiểu, bởi hai văn bản luật có định hướng mục đích tác động và điều chỉnh khác nhau. Điều cần bàn là sự khác nhau này có mâu thuẫn với nhau hay không, hiểu và áp dụng như thế nào trong từng quan hệ pháp luật? Theo tôi việc cho rằng, Luật Cư trú là văn bản pháp luật chuyên ngành nằm trong nội hàm của BLDS với tư cách là một luật chung (luật gốc) là không ổn về mặt nhận thức pháp lý. Bởi lẽ, BLDS là nguồn của pháp luật dân sự điều chỉnh hành vi xử sự của các chủ thể trong quan hệ dân sự, còn Luật Cư trú là nguồn của pháp luật hành chính điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước với công dân trong quan hệ pháp luật hành chính về lĩnh vực quản lý cư trú. Hai văn bản quy phạm pháp luật này điều chỉnh hai lĩnh vực quan hệ xã hội khác nhau và thuộc hai ngành luật khác nhau nên tuy có quy định khác nhau nhưng hoàn toàn không mâu thuẫn với nhau. Một vấn đề tuy nhỏ nhưng cũng đủ giúp chúng ta hiểu sâu hơn về vấn đề này, giúp xác định được Luật Cư trú là một văn bản pháp luật hành chính nữa là, hiện nay trong các văn bản quy phạm pháp luật dân sự hoàn toàn không dùng thuật ngữ “công dân” như trước đây mà đã được thay bằng thuật ngữ “cá nhân” đây là hệ quả tất yếu của thời kỳ hội nhập quốc tế vì trong quan hệ dân sự không chỉ có công dân Việt Nam tham gia mà còn có cả các cá nhân là người nước ngoài, người không quốc tịch,… Trong khi đó ở Luật Cư trú hoàn toàn không dùng thuật ngữ “nơi cư trú của cá nhân” mà dùng thuật ngữ “nơi cư trú của công dân” vì đây là văn bản quy phạm pháp luật hành chính điều chỉnh quan hệ giữa nhà nước với công dân (người có quốc tịch Việt Nam) trong lĩnh vực cư trú. Do đó, trong quan hệ pháp luật dân sự và quan hệ pháp luật tố tụng dân sự bắt buộc phải căn cứ vào quy định tại Điều 40 của BLDS năm 2015 để xác định nơi cư trú của cá nhân. Như vậy, quan điểm về việc xác định nơi cư trú trong quan hệ pháp luật dân sự và pháp luật tố tụng dân sự mà dựa vào yếu tố quản lý hành chính là đã sai ngay từ khi lựa chọn pháp luật áp dụng để giải quyết vấn đề. Chính từ sự nhận thức sai về việc xác định nơi cư trú kéo theo hậu quả là việc xác định nơi cư trú cuối cùng cũng sai theo.

 

Về việc xác định nơi cư trú cuối cùng, hiện nay cả BLDS và BLTTDS (Bộ luật Tố tụng dân sự) đều chưa có quy định thế nào là nơi cư trú cuối cùng nên đã gây không ít khó khăn trong việc xác định thẩm quyền của các Toà án. Do pháp luật chưa có quy định, nên thực tế đã có người tham khảo, viện dẫn và vận dụng sự diễn giải của Từ điển Tiếng Việt để hiểu rằng: “cuối cùng” tức là: “đó là hết, là chấm dứt” để rồi kết luận: “Nơi cư trú cuối cùng của công dân được hiểu là: nơi công dân thường trú, tạm trú hoặc nơi đang sinh sống tại đó là hết, là chấm dứt”[1]. Cách định nghĩa này cũng chưa thoát khỏi khái niệm nơi cư trú theo Luật cư trú. Mặt khác, một người vắng mặt tại nơi cư trú hoặc biệt tích trong thời gian đủ điều kiện để tuyên bố mất tích, tuyên bố là đã chết thì chưa hẳn là họ đã chết về mặt sinh học mà thường là họ đang cư trú một nơi nào đó mà người có quyền lợi liên quan yêu cầu Toà án giải quyết các việc nói trên không biết được tin tức về họ mà thôi. Đối với một người đang sống, khi họ chấm dứt cư trú tại nơi này thì sẽ tiếp tục cư trú ở một nơi khác, do đó nơi cư trú trước đó không thể coi là cuối cùng được. Việc hiểu rằng “nơi đang sinh sống tại đó là hết, là chấm dứt” chỉ có thể đúng với trường hợp người đó thực sự đã chết về mặt sinh học, vì chỉ khi chết con người mới có thể chấm dứt việc cư trú. Vậy nên, để tiếp cận khái niệm nơi cư trú cuối cùng không thể nhìn theo góc độ là nơi cư trú thực tế cuối cùng của người biệt tích (vì điều đó không thể nào xác định được) mà phải tiếp cận từ phía nhận thức, thu nhận tin tức của nguyên đơn, của người yêu cầu (sau đây gọi chung là nguyên đơn) về nơi cư trú của người biệt tích. Tức là, nơi cư trú cuối cùng của người biệt tích là nơi cuối cùng mà nguyên đơn biết được người đã biệt tích thường xuyên sinh sống (hoặc sinh sống - tương ứng với việc xác định nơi cư trú) tại đó trước khi họ biệt tích.

 

Ví dụ: Chị C cư trú tại huyện H tỉnh Q kết hôn với anh T cư trú tại huyện B tỉnh N, sau khi kết hôn chị C đã cắt chuyển hộ khẩu về quê chồng là huyện B tỉnh N cư trú. Sau một thời gian chung sống giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nên chị C đã bỏ về nhà cha mẹ đẻ ở huyện H tỉnh Q sinh sống mà không cắt chuyển hộ khẩu thường trú cũng như không đăng ký tạm trú. Một thời gian sau đó chị C bỏ đi biệt tích trong một thời gian dài đủ điều kiện để tuyên bố là đã chết nên anh T đã làm đơn yêu cầu Toà án tuyên bố chị C là đã chết. Trong trường hợp này Toà án có thẩm quyền giải quyết là TAND huyện H tỉnh Q (nơi cư trú cuối cùng của chị C mà anh T biết được trước khi chị C biệt tích). Cũng trong ví dụ này, nếu sau khi bỏ về nhà cha mẹ đẻ sinh sống một thời gian chị C lại đến huyện K tỉnh Đ làm ăn và chung sống như vợ chồng với anh S một thời gian tại đây, trong thời gian này chị C có viết thư về thăm các con, có địa chỉ cụ thể nhưng sau đó anh T vào để đón chị C về thì chị C và anh S đã bỏ đi đâu mà những người dân sống quanh đó cũng không biết chị C đã đi đâu. Trong trường hợp này Toà án có thẩm quyền giải quyết phải là TAND huyện K tỉnh Đ (nếu theo cách lập luận của những người theo quan điểm dựa vào yếu tố quản lý hành chính như đã nêu trên thì, trong cả hai trường hợp trên đều thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện B tỉnh N, nơi chị C có hộ khẩu thường trú).

 

Sở dĩ BLTTDS quy định thẩm quyền giải quyết đối với các vụ án mà không biết địa chỉ của bị đơn; các loại việc dân sự như yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, tuyên bố một người mất tích, tuyên bố một người đã chết là Toà án nơi cư trú cuối cùng của đương sự mà không quy định là nơi cư trú đầu tiên, thứ hai, hay thứ ba,…là bởi vì nơi cư trú cuối cùng của người biệt tích sẽ là nơi có manh mối gần nhất, sát nhất, nhiều thông tin nhất để nguyên đơn và cả Toà án đều có điều kiện, có cơ hội tiếp cận, tìm kiếm thông tin hơn những nơi khác. Việc hiểu như trên mới đúng tinh thần quy định của pháp luật và phù hợp với đòi hỏi của thực tế cuộc sống./.

                                                   

                                                                Phạm Thái Quý

 

[1] Xem bài viết “Bàn về một số vướng mắc thường gặp trong giải quyết vụ việc dân sự” của tác giả Đỗ Văn Chỉnh đăng trên Tạp chí TAND số 19 năm 2008.

More