Thống kê truy cập

Số lượng và lượt người truy cập

  • Online 5

  • Hôm nay 7219

  • Tổng 6.784.606

Một số kinh nghiệm trong quyết định và giám sát về đất đai của Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Bình

Post date: 06/04/2018

Font size : A- A A+
Tại Hội thảo Quốc hội Việt Nam - Lào tại tỉnh Sơn La, Thường trực HĐND tỉnh Quảng Bình đã trao đổi một số kinh nghiệm trong vấn đề quyết định và giám sát về đất đai của Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Bình trong thời gian qua.

 

Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định “Đất đai là tài nguyên đặc biệt của Quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật”. Quản lý, sử dụng đất đai tiết kiệm, có hiệu quả là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Nhà nước, là yếu tố quyết định sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Việc quyết định và giám sát về đất đai của HĐND ở các địa phương có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo triển khai thực hiện có hiệu quả, đúng quy định của pháp luật, tạo điều kiện cho UBND các cấp quản lý, sử dụng đất đai được tốt hơn.


Tỉnh Quảng Bình nằm ở khu vực Bắc Trung Bộ, giáp ranh với các tỉnh Khăm Muộn và tỉnh Xa Vẳn Na Khệt của nước Cộng hòa DCND Lào, có diện tích tự nhiên là 8.000,03 km2, chiếm khoảng 2,43% về diện tích cả nước, trong đó: đất nông nghiệp: 712.536 ha, đất phi nông nghiệp: 76.853 ha, đất chưa sử dụng: 10.614 ha. Dân số năm 2015 là 872.925 người, có 8 đơn vị hành chính cấp huyện gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 6 huyện; 159 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 16 phường, 7 thị trấn và 136 xã. Là tỉnh nằm chủ yếu ở sườn phía Đông dãy Trường Sơn có địa hình phức tạp, bị chia cắt mạnh, bề ngang hẹp và dốc nghiêng từ Tây sang Đông. Sườn phía Đông có độ dốc ra biển lớn. Dọc theo lãnh thổ đều có núi, trung du, đồng bằng ven biển và cuối cùng là bãi cát ven biển. Đồi núi chiếm trên 85% diện tích tự nhiên, đồng bằng nhỏ hẹp, đất lúa ít, đất nông lâm nghiệp xen kẽ và bị chia cắt bởi nhiều sông suối dốc và chảy xiết nên gây lũ bất ngờ. Nơi hẹp nhất là cao điểm 1002 giữa ranh giới huyện Bố Trạch, huyện Quảng Ninh với tỉnh Khăm Muộn đến cửa Nhật Lệ dài 40,3 km theo đường chim bay.


Quản lý nhà nước về đất đai là một trong những nhiệm vụ quan trọng của các cấp, các ngành và địa phương. Trong những năm qua việc tổ chức và thực hiện pháp luật đất đai trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã được Tỉnh ủy, HĐND tỉnh và UBND tỉnh quan tâm, chỉ đạo thực hiện nên đã đạt được những kết quả nhất định: Công tác lập, điều chỉnh và tổ chức thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được thực hiện đúng quy trình, đúng tiến độ; chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được nâng cao, bảo đảm phù hợp với thực trạng sử dụng đất và thống nhất giữa các cấp; công tác giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất được triển khai thực hiện tốt, đáp ứng yêu cầu thu hút các dự án đầu tư trong và ngoài tỉnh; công tác bồi thường giải phóng mặt bằng đã được thực hiện đúng quy trình, tỉnh ban hành kịp thời chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, bảo đảm minh bạch, có lợi cho người dân, qua đó đã hạn chế tình trạng khiếu kiện về giải phóng mặt bằng trên địa bàn. Việc xác định giá đất cụ thể được thực hiện tốt; thực hiện ủy quyền định giá đất cụ thể, xác định giá khởi điểm trong hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất, tạo điều kiện cho UBND các huyện, thị xã, thành phố chủ động trong công tác xác định giá đất cụ thể đối với các trường hợp giao đất, cho thuê đất thuộc thẩm quyền của UBND các huyện, thị xã, thành phố.


Tuy nhiên, qua hoạt động giám sát thấy rằng quá trình quản lý, sử dụng đất vẫn còn những vấn đề nổi lên cần quan tâm, đó là: Công tác quản lý đất đai ở một số nơi chưa chặt chẽ, tình trạng lấn chiếm, tranh chấp đất đai chưa được giải quyết triệt để, tình trạng sử dụng đất lãng phí, kém hiệu quả chậm khắc phục; việc cập nhật bản đồ, dữ liệu địa chính khi biến động đất đai chưa kịp thời. Công tác quy hoạch sử dụng đất còn nhiều tồn tại: chất lượng quy hoạch chưa cao, một số chỉ tiêu sử dụng đất thực hiện chưa sát với chỉ tiêu quy hoạch sử dụng đất được duyệt, đặc biệt là sử dụng đất tại các khu công nghiệp, khu du lịch.... Trong quá trình thực hiện kế hoạch sử dụng đất có một số loại đất đạt tỷ lệ thấp so với chỉ tiêu quy hoạch được duyệt. Ruộng đất nông nghiệp vẫn còn manh mún, quá trình tích tụ ruộng đất diễn ra chậm, hiệu quả sử dụng đất chưa cao. Cơ chế quản lý tài chính về đất đai chưa thực sự có hiệu quả, nguồn thu ngân sách từ đất đai chưa tương xứng với tiềm năng đất đai của tỉnh; chưa khai thác triệt để lợi thế của đất đai theo hướng đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất để tăng nguồn thu từ đất. Việc quản lý quy hoạch sau khi được phê duyệt ở cấp huyện, xã còn tình trạng để người dân tự ý chuyển mục đích sử dụng đất không theo quy hoạch. Việc kiểm tra giám sát cấp huyện, xã thực hiện công tác quản lý Nhà nước về đất đai theo quy định Luật Đất đai năm 2013 còn hạn chế.


Với chức năng, nhiệm vụ theo luật định, trong những năm qua, Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Bình đã thể hiện vai trò của mình trong các hoạt động giám sát, thẩm tra, đưa ra các quyết định liên quan đến đất đai trên địa bàn tỉnh đảm bảo đúng pháp luật, hợp lòng dân, góp phần đảm bảo việc thực thi pháp luật đất đai một cách nghiêm túc. Điều đó được thể hiện qua các nội dung hoạt động cụ thể như sau:


1. Thực hiện chức năng quyết định những vấn đề về đất đai ở tỉnh


Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Đất đai và các văn bản pháp luật liên quan: quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương phải được Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua trước khi trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; HĐND các cấp quyết định biện pháp quản lý, sử dụng đất đai; thông qua bảng giá đất, việc thu hồi đất thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng của cấp mình. Cụ thể:


+ Đối với quyết định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: đây là một trong những nội dung quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về đất đai, là căn cứ để thực hiện kế hoạch giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất theo kỳ và hàng năm. Trong những năm qua, HĐND tỉnh đã ban hành các Nghị quyết: Nghị quyết số 30/2011/NQ-HĐND ngày 01/12/2011 về quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất kỳ đầu 2011-2015 của tỉnh Quảng Bình; Nghị quyết số 13/2016/NQ-HĐND ngày 08/12/2016 về điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016- 2020) của tỉnh Quảng Bình. Các Nghị quyết ban hành trên cơ sở các quy định của Quốc hội, Chính phủ và phù hợp với thực tế của địa phương, đảm bảo trình tự, thủ tục theo quy định.


+ Đối với quyết định về kế hoạch thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất hàng năm: Căn cứ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt, vào kỳ họp cuối năm, HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết về kế hoạch thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất năm sau cho từng loại đất, danh mục dự án cụ thể. Sau khi Nghị quyết của HĐND tỉnh ban hành, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn triển khai thực hiện, nếu cần điều chỉnh, bổ sung thì UBND tỉnh xin ý kiến của Thường trực HĐND tỉnh xem xét, quyết định. Qua theo dõi thấy rằng kế hoạch thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất hàng năm được triển khai thực hiện tốt, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thu hút các dự án đầu tư trong và ngoài tỉnh.


+ Đối với quyết định về ban hành bảng giá đất: Trước đây Bảng giá đất hàng năm được HĐND tỉnh quy định theo từng năm, kể từ năm 2015, Bảng giá đất được ban hành theo định kỳ 5 năm một lần. Giai đoạn 2015 - 2019 được HĐND tỉnh ban hành tại Nghị quyết số 100/2014/NQ-HĐND ngày 11/12/2014. Hàng năm hệ số điều chỉnh giá đất trên địa bàn tỉnh được Thường trực HĐND tỉnh xem xét cho ý kiến theo đề nghị của UBND tỉnh. Qua hơn hai năm thực hiện, cơ bản đã đáp ứng tốt yêu cầu đề ra; thực tế trên địa bàn những năm qua giá các loại đất không có biến động nhiều, cơ bản phục vụ tốt cho công tác quản lý Nhà nước về các nghĩa vụ tài chính đối với đất đai.
Các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân về đất đai hầu hết là văn bản quy phạm pháp luật, được ban hành đảm bảo theo nội dung, thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.


Qua thực tiễn việc ban hành nghị quyết của HĐND liên quan đến đất đai thấy vẫn còn những khó khăn, vướng mắc, đó là:


+ Về việc thực hiện trình tự, thủ tục thẩm định, phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo quy định tại Điều 9 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai đang còn bất cập do phải trình Bộ tài nguyên và Môi trường 02 lần (lần đầu Bộ Tài nguyên và Môi trường cho ý kiến thẩm định - HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết thông qua - lần 02 Bộ tài nguyên và Môi trường phê duyệt. Như vậy, Nghị quyết HĐND tỉnh thông qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh chỉ là hình thức nếu trường hợp Bộ Tài nguyên và Môi trường phủ quyết một số quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được HĐND tỉnh thông qua.


+ Đối với quyết định về kế hoạch thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất hàng năm: hiện nay do yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nên nhu cầu giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất rất nhiều và phát sinh liên tục trong năm. Trong lúc việc quyết định của HĐND tỉnh chỉ được ban hành nghị quyết vào kỳ họp cuối năm trước, nên vừa khó đáp ứng đầy đủ nhu cầu phát sinh, vừa không thực hiện hết kế hoạch phải chuyển sang năm sau do các địa phương, nhà đầu tư đăng ký nhiều để dự phòng, cơ quan chuyên môn thiếu kiểm tra, soát xét.
Qua hoạt động thẩm tra, ban hành nghị quyết liên quan đến đất đai chúng tôi rút ra những kinh nghiệm đó là: Để nâng cao chất lượng thẩm tra, ban hành các quyết định về đất đai có hiệu lực, hiệu quả đòi hỏi Ban kinh tế - ngân sách là cơ quan được phân công thẩm tra giúp HĐND tỉnh đưa ra quyết định cần tiếp cận hồ sơ quy hoạch, kế hoạch từ sớm để nghiên cứu, tham gia các cuộc họp lấy ý kiến về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; tổ chức khảo sát thực tế, tham khảo ý kiến của người dân, chính quyền cơ sở nếu cần thiết, nhất là những nơi có thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng đặc dụng, phòng hộ, đất trồng lúa; phân công bộ phận tham mưu, giúp việc tổng hợp đầy đủ tài liệu, rà soát số liệu để cung cấp cho các thành viên Ban trước khi làm việc với các cơ quan soạn thảo trình nghị quyết.

2. Thực hiện chức năng giám sát việc chấp hành pháp luật về đất đai ở tỉnh


Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Đất đai và các văn bản pháp luật liên quan khác thì Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền giám sát về quản lý và sử dụng đất đai theo quy định của Hiến pháp và Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Việc giám sát phải bảo đảm khách quan, trung thực, đúng pháp luật.
Mục tiêu giám sát về quản lý và sử dụng đất đai là để đánh giá tình hình chấp hành pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, xem xét việc quản lý, triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt; đánh giá kết quả đạt được, những hạn chế, yếu kém của các cơ quan, địa phương, đơn vị trong việc chấp hành pháp luật về đất đai. Qua giám sát rút ra kết luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các cơ quan, địa phương, đơn vị có liên quan trong công tác quản lý, sử dụng đất nhằm tăng cường trách nhiệm, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai; hạn chế tình trạng quản lý, sử dụng đất sai quy hoạch, kế hoạch và những tồn tại, tiêu cực trong việc quản lý, sử dụng đất.


Trong thời gian qua để thực hiện chức năng giám sát đảm bảo hiệu quả, chất lượng, Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Bình đã tập trung giám sát những nội dung chủ yếu như: giám sát việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất đối với các dự án đầu tư có sử dụng đất; giám sát việc chuyển mục đích sử dụng đất, trong đó chú trọng công tác giao đất, giao rừng cho đồng bào dân tộc thiểu số có đất sản xuất, thu hồi chuyển mục đích đất rừng đặc dụng, phòng hộ, đất trồng lúa; giám sát việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; giám sát việc đền bù giải phóng mặt bằng; giám sát các dự án tạo quỹ đất; giám sát việc đấu giá quyền sử dụng đất; giám sát tài chính về đất đai, giá đất;.v.v..


Hoạt động giám sát của HĐND được thực hiện thông qua các cuộc giám sát chuyên đề của Thường trực HĐND, của Ban kinh tế - ngân sách; giám sát thường xuyên thông qua hoạt động thẩm tra của các Ban HĐND tỉnh đối với các nghị quyết liên quan đến đất đai, giám sát của các tổ đại biểu, các đại biểu HĐND qua hoạt động tiếp xúc cử tri và những khiếu nại, tố cáo về tranh chấp đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng.


Về trình tự hoạt động giám sát chuyên đề đất đai: Trên cơ sở Nghị quyết về chương trình giám sát hàng năm của HĐND tỉnh đã được ban hành, Thường trực HĐND hoặc Ban Kinh tế - ngân sách ban hành kế hoạch, quyết định thành lập đoàn giám sát. Thành phần đoàn giám sát gồm Thường trực HĐND, các Ban chuyên trách của HĐND tỉnh, mời thêm đại diện lãnh đạo, cán bộ, chuyên gia của một số đơn vị chuyên ngành như tài nguyên - môi trường, xây dựng và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc. Đoàn giám sát có trách nhiệm xây dựng kế hoạch giám sát. Kế hoạch quy định rõ các nội dung giám sát như công tác lãnh đạo và ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn; việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch và tổ chức thực hiện của tỉnh, cấp huyện, cấp xã và của các doanh nghiệp; công tác giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất của các cấp chính quyền; công tác tuyên truyền, phổ biến và việc giải quyết khiếu nại tố cáo về đất đai trong nhân dân. Đối tượng giám sát trên cơ sở lựa chọn một số cơ quan, đơn vị, địa phương có chức năng, nhiệm vụ liên quan trực tiếp nhiều đến việc quản lý, thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất như Sở Tài nguyên - Môi trường, một số huyện, thành phố, các xã, phường, thị trấn và một số cơ quan, đơn vị đóng trên địa bàn tỉnh.


Trước khi tiến hành giám sát, Đoàn giám sát có công văn đề nghị các sở, ngành, cơ quan, đơn vị, địa phương được giám sát, theo chức năng, nhiệm vụ phân công, phân cấp quản lý chuẩn bị báo cáo bằng văn bản và chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, đúng đắn về các nội dung báo cáo.


Tại cơ quan, đơn vị, địa phương được giám sát, đoàn tiến hành giám sát theo từng nội dung đề cương đã gửi trước cho đơn vị; nghe đơn vị báo cáo, đối chiếu với những số liệu, thông tin và tình hình đã nắm được trước đó để phân tích, đánh giá, trao đổi, chất vấn trực tiếp tại buổi giám sát và tổ chức đi khảo sát thực tế ở cơ sở nếu thấy cần thiết. Sau khi các thành viên của đoàn có những chất vấn, trao đổi, đề nghị làm rõ thêm những vấn đề liên quan, cơ quan, đơn vị được giám sát có trách nhiệm giải trình thêm nhằm sáng tỏ vấn đề đang được đoàn giám sát quan tâm. Việc kết hợp giữa nghe đơn vị báo cáo, chất vấn, giải trình với việc nắm bắt tình hình thực tế là yêu cầu để nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát, từ đó có những nhận định, đánh giá khách quan, chính xác nhất. Tại địa phương - nơi đoàn giám sát đến làm việc, mời Thường trực HĐND huyện cùng tham gia để có những phát biểu khách quan, toàn diện ở góc độ theo dõi, giám sát nhằm hiểu rõ hơn tình hình thực tế tại cơ sở.


Khi kết thúc làm việc tại cơ quan, đơn vị, địa phương, trưởng đoàn nêu ý kiến kết luận, đánh giá những nội dung đã làm được, chưa làm được, trao đổi thêm một số vấn đề phát sinh tại buổi làm việc, đề xuất những vấn đề cụ thể, thông báo cho đơn vị giám sát và những bộ phận có liên quan được biết để thực hiện những kiến nghị của đoàn giám sát nêu lên, đồng thời yêu cầu gửi báo cáo đã chỉnh lý lại cho đoàn giám sát. Trước khi trình báo cáo kết quả giám sát cho Thường trực HĐND tỉnh xem xét, quyết định, Đoàn giám sát tổ chức họp để trao đổi, thống nhất toàn bộ nội dung của báo cáo giám sát. Trước khi báo cáo giám sát được trình tại kỳ họp HĐND, Thường trực HĐND tổ chức họp để nghe Đoàn giám sát báo cáo và lấy ý kiến của một số ngành, đơn vị có liên quan.


Qua hoạt động giám sát chúng tôi nhận thấy còn những khó khăn, vướng mắc thường xuất hiện, đó là: Các đối tượng giám sát thường gửi báo cáo muộn theo yêu cầu kế hoạch; các tài liệu, hồ sơ liên quan nội dung giám sát cung cấp chưa đầy đủ làm ảnh hưởng đến việc tiếp cận, nghiên cứu hồ sơ; việc cử chuyên gia của các sở, ngành chuyên môn tham gia với đoàn giám sát có lúc không đảm bảo yêu cầu do không đúng đối tượng, thiếu khách quan trong phản ánh, đánh giá vì bảo vệ ngành mình, cơ quan minh; giám sát tại các dự án chậm tiến độ, nợ tiền thuê đất khó khăn do nhiều chủ dự án, doanh nghiệp thiếu hợp tác, không có mặt tại địa phương;.....


Từ hoạt động giám sát về đất đai chúng tôi rút ra những kinh nghiệm để nâng cao chất lượng , hiệu quả các cuộc giám sát, đó là: Lựa chọn những vấn đề nổi lên trong lĩnh vực đất đai để đưa ra nội dung giám sát chuyên đề như: Tình hình thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; công tác thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất; các dự án tạo quỹ đất theo hình thức xã hội hóa; việc giao đất, giao rừng cho đồng bào dân tộc thiểu số;... Khi giám sát các nội dung về thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất cần đi khảo sát thực tế, tham khảo ý kiến nhân dân và chính quyền cơ sở những khu vực nhạy cảm, diện tích thu hồi, chuyển mục đích lớn, liên quan đến đất rừng đặc dụng, phòng hộ, đất lúa. Ngoài ra, việc lựa chọn thời điểm, thời gian giám sát, đối tượng giám sát phù hợp sẽ giúp cho cuộc giám sát được thành công, đạt chất lượng, hiệu quả hơn.


Về những kiến nghị, đề xuất: Để góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai, chúng tôi đề nghị Chính phủ, các Bộ ngành và các địa phương cần quan tâm thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:


Một là, tiếp tục rà soát, xây dựng và hoàn thiện các chính sách pháp luật về đất đai (cụ thể hóa, điều chỉnh, bổ sung các chính sách về đất đai phù hợp với tình hình của địa phương và các văn bản mới). Trong đó, tăng cường chế tài xử lý vi phạm pháp luật đủ mạnh để răn đe, phòng ngừa vi phạm, đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước; giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Quốc hội và Hội đồng nhân các cấp; xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm.


Hai là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về đất đai, đặc biệt là công tác đăng ký đất đai để giúp cho công tác quản lý nhà nước về đất đai ngày càng tốt hơn.
Ba là, chuẩn hóa các thủ tục hành chính về đất đai, tiếp tục đơn giản hóa các thủ tục hành chính đảm bảo nhanh, gọn, đúng luật.


Bốn là, xây dựng và kiện toàn công tác quản lý đất đai theo hướng hiện đại hóa trên cơ sở ứng dụng công nghệ hiện đại và mô hình quản lý tiên tiến. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ là một trong những đột phá chiến lược chính để phát triển.


Năm là, nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất để đảm bảo phân bổ một cách hợp lý nguồn tài nguyên của địa phương, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội bền vững theo định hướng chủ đạo và yêu cầu xuyên suốt trong công tác quản lý nhà nước về đất đai.


BBT

More