Thống kê truy cập

Số lượng và lượt người truy cập

  • Online 4

  • Hôm nay 116

  • Tổng 4.351.706

MỘT SỐ ĐIỂM MỚI VỀ MÔ HÌNH VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG CỦA LUẬT TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG (SỬA ĐỔI, BỔ SUNG)

Post date: 29/05/2020

Font size : A- A A+

       Ngày 22/11/2019, Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật có hiệu lực từ ngày 01/7/2020. Một số điểm mới về mô hình và cơ cấu tổ chức  chính quyền địa phương của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), như sau:

        Thứ nhất, về mô hình tổ chức chính quyền địa phương: Luật quy định theo hướng linh hoạt. Theo đó, Luật khẳng định chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.

- Chính quyền địa phương ở quận, phường là cấp chính quyền địa phương (có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân), trừ trường hợp cụ thể Quốc hội quy định không phải là cấp chính quyền địa phương để phù hợp với đặc điểm và yêu cầu quản lý của từng đô thị (sửa đổi, bổ sung Điều 44 và Điều 58).

- Trường hợp đơn vị hành chính cấp huyện ở hải đảo chia thành các đơn vị hành chính cấp xã thì tại đơn vị hành chính cấp xã tổ chức cấp chính quyền địa phương, trừ trường hợp cụ thể Quốc hội quy định không phải là cấp chính quyền địa phương; giao Chính phủ quy định việc tổ chức các cơ quan thuộc chính quyền địa phương ở địa bàn hải đảo (sửa đổi, bổ sung Điều 72).

 - Tổ chức chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội quy định khi thành lập đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt đó (Điều 75).

Ông Nguyễn Ngọc Phương, Phó Trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh
 tham gia thảo luận về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương.

 

Thứ hai, đại biểu Hội đồng nhân dân cần có 01 quốc tịch Việt Nam: Đây là nội dung mới được bổ sung vào Điều 7 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Theo đó, tiêu chuẩn của đại biểu HĐND phải đáp ứng điều kiện có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam. Nội dung này được hiểu là có thể người mang nhiều quốc tịch nhưng trong đó phải có quốc tịch Việt Nam.

Thứ ba, giảm số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp: Một trong những điểm đáng chú ý nhất của Luật sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức chính quyền địa phương là giảm số lượng đại biểu HĐND các cấp. Trong đó:

- Đối với Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương:

+ Thành phố trực thuộc trung ương có từ 01 triệu dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; có trên 01 triệu dân thì cứ thêm 60.000 dân được bầu thêm 01 đại biểu, tổng số không quá 85 đại biểu (trước ngày 01/7/2020 quy định không quá 95 đại biểu).  

+ Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh được bầu 95 đại biểu (trước ngày 01/7/2020 quy định không quá 105 đại biểu).

- Đối với Hội đồng nhân dân tỉnh:

+ Tỉnh miền núi, vùng cao có từ 500.000 dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; có trên 500.000 dân thì cứ thêm 50.000 dân được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng không quá 75 đại biểu (trước ngày 01/7/2020 là không quá 85 đại biểu).

+ Tỉnh còn lại có từ 01 triệu dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; có trên 01 triệu dân thì cứ thêm 70.000 dân được bầu thêm 01 đại biểu, tổng số không quá 85 đại biểu (trước ngày 01/7/2020 không quá 95 đại biểu).

- Đối với Hội đồng nhân dân quận: Quận có từ 100.000 dân trở xuống được bầu 30 đại biểu; có trên 100.000 dân thì cứ thêm 15.000 dân được bầu thêm 01 đại biểu, tổng số không quá 35 đại biểu (trước ngày 01/7/2020 là trên 80.000 dân được bầu tối đa 40 đại biểu).

- Đối với Hội đồng nhân dân thị xã, thành phố:

+ Thị xã có từ 80.000 dân trở xuống được bầu 30 đại biểu; có trên 80.000 dân thì cứ thêm 15.000 dân được bầu thêm 01 đại biểu, tổng số không quá 35 đại biểu (trước ngày 01/7/2020 là trên 70.000 dân được bầu tối đa 40 đại biểu)

+ Thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương có từ 100.000 dân trở xuống được bầu 30 đại biểu; có trên 100.000 dân thì cứ thêm 15.000 dân được bầu thêm 01 đại biểu, tổng số không quá 35 đại biểu (trước ngày 01/7/2020 được bầu tối đa 40 đại biểu).

+ Số lượng đại biểu HĐND ở thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương có từ 30 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc trở lên do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, nhưng tổng số không quá 40 đại biểu (trước ngày 01/7/2020 tối đa 45 đại biểu).

- Đối với Hội đồng nhân dân huyện:

+ Huyện miền núi, vùng cao, hải đảo có từ 40.000 dân trở xuống được bầu 30 đại biểu; có trên 40.000 dân thì cứ thêm 7.000 dân được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng không quá 35 đại biểu (trước ngày 01/7/2020 là không quá 40 đại biểu).

+ Huyện không thuộc trường hợp trên có từ 80.000 dân trở xuống được bầu 30 đại biểu; có trên 80.000 dân thì cứ thêm 15.000 dân được bầu thêm 01 đại biểu, tổng số không quá 35 đại biểu (trước ngày 01/7/2020 là không quá 40 đại biểu).

+ Huyện có từ 30 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc trở lên do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, tổng số không quá 40 đại biểu (trước ngày 01/7/2020 là không quá 45 đại biểu).

- Đối với Hội đồng nhân dân phường:

+ Phường có từ 10.000 dân trở xuống được bầu 21 đại biểu (trước ngày 01/7/2020 là 8.000 dân không quá 25 đại biểu).

+ Phường có trên 10.000 dân thì cứ thêm 5.000 dân được bầu thêm 01 đại biểu, tổng số không quá 30 đại biểu (trước ngày 01/7/2020 là trên 8.000 dân không quá 35 đại biểu).

- Đối với Hội đồng nhân dân xã:

+ Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có từ 2.000 dân trở xuống được bầu 15 đại biểu (trước ngày 01/7/2020 là 20 đại biểu).

+ Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có trên 2.000 dân đến dưới 3.000 dân được bầu 19 đại biểu (trước ngày 01/7/2020 là 25 đại biểu).

+ Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có từ 3.000 đến 4.000 được bầu 21 đại biểu; có trên 4.000 thì cứ thêm 1.000 dân được bầu thêm 01 đại biểu, tổng số không quá 30 đại biểu (trước ngày 01/7/2020 là không quá 35 đại biểu).

+ Xã không thuộc trường hợp tại các quy định nêu trên có từ 5.000 dân trở xuống được bầu 25 đại biểu; có trên 5.000 dân thì cứ thêm 2.500 dân được bầu thêm 01 đại biểu, tổng số không quá 30 đại biểu (trước ngày 01/7/2020 là 35 đại biểu).

Thứ tư, giảm số lượng Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách:

- Đối với HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: Trường hợp Chủ tịch HĐND tỉnh là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách thì có một Phó Chủ tịch HĐND; trường hợp Chủ tịch HĐND tỉnh là đại biểu HĐND hoạt động không chuyên trách thì có hai Phó Chủ tịch HĐND (trước khi sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định cả Chủ tịch và hai Phó Chủ tịch HĐND có thể hoạt động chuyên trách).

- Đối với HĐND cấp huyện: Thường trực HĐND huyện gồm Chủ tịch HĐND, một Phó Chủ tịch HĐND (trước khi sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định hai Phó Chủ tịch HĐND).

Thứ năm, giảm số lượng đại biểu chuyên trách các Ban của HĐND cấp tỉnh: Trường hợp Trưởng ban của HĐND là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách thì Ban có một Phó Trưởng ban; trường hợp Trưởng ban của HĐND là đại biểu HĐND hoạt động không chuyên trách thì Ban có hai Phó Trưởng ban (trước khi sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định Trưởng ban và hai Phó Trưởng ban có thể hoạt động chuyên trách).

Thứ sáu, tăng số lượng Phó Chủ tịch của xã loại II, cụ thể: Luật sửa đổi cũng thay đổi cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân cấp xã. Trong đó, cho phép xã loại II được có tối đa hai Phó Chủ tịch xã (trước đây chỉ có một Phó Chủ tịch); xã loại I và xã loại III, Luật Tổ chức chính quyền địa phương vẫn quy định như trước đây.

Thứ bảy, Luật quy định Chánh Văn phòng HĐND cấp tỉnh không tham gia làm Ủy viên Thường trực HĐND; Thường trực HĐND cấp xã bổ sung thêm Ủy viên Thường trực là Trưởng các Ban của HĐND cấp xã.

Thứ tám, không còn khái niệm “họp bất thường”, cụm từ “họp bất thường” đã được sửa đổi, bổ sung bằng cụm từ “họp chuyên đề hoặc họp để giải quyết công việc phát sinh đột xuất”.

Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi, bổ sung năm 2019) có hiệu lực (ngày 01/7/2020) cho đến khi bầu ra HĐND nhiệm kỳ 2021 - 2026, số lượng đại biểu HĐND tại các đơn vị hành chính, cơ cấu Thường trực HĐND cấp tỉnh và cấp xã, số lượng Phó Chủ tịch HĐND và Phó Trưởng ban của Ban của HĐND cấp tỉnh, Phó Chủ tịch HĐND cấp huyện, Phó Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn loại II tiếp tục thực hiện theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 77/2015/QH13.

Quách Xuân Hưng

 

More